Tìm kiếm
Chào mừng bạn đến với trang điện tử của Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Bình luận sách |  Bạn đang ở:Trang chủ » Chi tiết bình luận sách
Vài nét về tiêu chí tuyển chọn tác giả, tác phẩm và nội dung cuốn sách “Tuyển tập ký - tản văn Xứ Đoài”
Thứ sáu, 15/11/2019 08:56

 “Tuyển tập ký - tản văn Xứ Đoài” do Nhà thơ Bằng Việt chủ biên là một đề tài thuộc mảng sách Văn học nghệ thuật của Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến giai đoạn II.  Đây là cuốn sách cần thiết nhằm bổ sung vào phần khiếm khuyết của bộ sách “Tuyển tập ký - tản văn Thăng Long - Hà Nội” từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính (năm 2008). Cuốn sách được Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành và ra mắt bạn đọc quý 4/2019. Để bạn đọc dễ dàng khi tiếp cận cuốn sách, chúng tôi xin tóm gọn những nội dung về tiêu chí tuyển chọn tác giả, tác phẩm và kết cấu cuốn sách như sau:

Về tiêu chí tuyển chọn tác giả, tác phẩm:

Khi đọc cuốn sách, độc giả sẽ thấy ngay trong bài giới thiệu sách, nhóm biên soạn đã nêu rõ việc chọn lựa thể loại bài viết đưa vào cuốn sách. Đây là những bài văn cổ điển mang tính chất “văn - sử triết bất phân”, các bài văn cận và hiện đại mang tính nhật ký, ghi chép, bút ký, ký sự, tạp bút, tiểu phẩm ngắn, một số tiểu luận có tính văn học và một số bài phóng sự có nét báo chí, thời sự phù hợp với tiêu chí cuốn sách và mở rộng sang một số truyện ký nhất là truyện ký lịch sử hoặc dã sử. Do đó những tác phẩm được tuyển chọn vào tập tuyển này là khá đa dạng và phong phú nhưng gắn với tiêu chí là tác phẩm không xuất phát từ hư cấu, thể hiện được chủ kiến hoặc cái tôi của người trực tiếp tham dự, mục kích sự việc hay trực tiếp dẫn dắt miêu tả sự việc. Và bạn đọc sẽ thấy ở đây đặc biệt là tiêu chí lựa chọn tác giả là người của vùng quê Xứ Đoài, tức là vùng Hà Đông, Sơn Tây hiện nay, hoặc một số vùng lân cận được quy ước là vùng đất Xứ Đoài thuộc trấn Sơn Tây và một phần trấn Sơn Nam Thượng giáp với Sơn Nam Hạ xưa kia, một phần lan sang cả đất Hoà Bình và Hà Nam, mà thành cổ Sơn Tây chính là thị tứ trung tâm của cả vùng đất cổ này, nằm ở phía tây kinh thành Thăng Long tứ trấn đã hình thành từ thế kỷ XV.  

Với 57 tác giả được chọn, có 7 tác giả ở giai đoạn từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX với 14 bài viết được tuyển chọn, ở giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI có 50 tác giả với 81 bài viết (giai đoạn 1900 đến 1945 - cận đại có 10 tác giả với 13 bài viết; giai đoạn 1945 đến 2010 – đương đại có 40 tác giả với 68 bài viết). Tác giả được chọn xếp theo thứ tự tên vần ABC để đảm bảo tính khách quan trong việc sắp xếp vị trí thứ tự tác giả trong sách.

Về Kết cấu: 

Cuốn sách gồm 2 phần với 57 tác giả và 95 bài viết được tuyển chọn, căn cứ trên thể loại bài theo tiêu chí lựa chọn được ghi rõ trong Lời giới thiệu sách, có tác giả chỉ có 1 bài nhưng có những tác giả có 2, 3, 4 bài, cụ thể:

Phần I. Từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX

1. Trần Thế Pháp – Vũ Quỳnh - Kiều Phú

Lĩnh Nam chích quái (trích)

- Truyện núi Tản Viên

- Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không

2. Nguyễn Phi Khanh (1355-1428)

- Bài ký Động Thanh Hư

3. Nguyễn Trãi (1380-1442)

- Quân trung từ mệnh tập

- Lam Sơn thực lục

4. Ngô Thì Nhậm (1746-1803)

- Hành trạng ba vị tổ sư (tam tổ hành trạng)

- Bàn về văn (Viết cho ông em thứ hai)

5. Phan Huy Ích (1751-1822)

- Lời tựa tập Ngô gia văn phái

- Tựa quyển trúc lâm đại chân Viên giác thanh

6. Phan Huy Chú (1782-1840)

- Hải trình chí lược (trích)

7. Nguyễn Văn Siêu (1799-1872)

- Phương đình văn tập (trích)

Phần II. Từ đầu thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI (2010)

A.   Giai đoạn 1900 đến 1945 (cận đại)

1. Nguyễn Bá Học (1857-1921)

- Câu chuyện một tối của người tân hôn

2. Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925)

- Điện Long Vương

3. Phan Kế Bính (1875-1921)

- Việt Nam phong tục (trích)

4. Nguyễn Đỗ Mục (1866-1949)

- Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải (tựa)

5. Nguyễn Đôn Phục (1878-1954)

- Khảo luận về cuộc hát ả đào

6. Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)

- Gì cũng cười

- Nghề hát bội của ta và nghề diễn kịch của người Âu châu

- Hương Sơn hành trình (ký sự)

7. Tản Đà (1889-1939)

- Giấc mộng lớn (trích)

- Chùm tạp văn và tiểu phẩm: Đám ma ông Lý Phèo; Người An Nam; Người làm văn; Chợ trời; Cụ Nguyễn Trãi; Trai thì loạn; Thu Lôi tiêm

8. Phạm Quỳnh (1892-1945)

- Trẩy chùa Hương

9. Nguyễn Mạnh Bổng (?-1952)

- Ai giết người? (Phóng sự)

10. Lê Thanh (1913-1944)

- Ông Nguyễn Khắc Hiếu

B. Giai đoạn 1945 đến 2010 (đương đại)

1. Hoài An (1926-2000)

- Đồng cỏ Mộc Châu (Bút ký)

2. Mai Anh (sinh năm 1935)

- Người chị bạn

3. Tạ Duy Anh (sinh năm 1959)

- Thế giới của tôi

4. Nguyễn Việt Chiến (sinh năm 1952)

- Mưa tháng Giêng – mùa lại về trên xuân quê hương

5. Đào Ngọc Chung (sinh năm 1939)

- Bát canh rau dền đỏ

6. Quang Dũng (1921-1988)

- Sườn Bắc Tản Viên

- Vào mùa chim ngói dưới chân núi Ba Vì

7. Phan Văn Đà (sinh năm 1938)

- Nơi vùng đất cổ “Sơn thuỷ hữu tình”

- Danh nhân quê hương

- Làng hoạ sĩ

8. Trần Đăng (1921-1949)

- Những ngày cuối năm

9. Lê Tất Điều (sinh năm 1942)

- Cỏ hoang

10. Yên Giang (sinh năm 1942)

- Sơn Tây và vùng văn hoá cổ Ba Vì (trích)

11. Nguyễn Thị Ngọc Hà (sinh năm 1949)

- Một góc thu Hà Nội (tản văn)

- Thương nhớ ngày xưa (tản văn)

12. Nguyễn Thị Ngọc Hải (sinh năm 1944)

- Ốc biển

- Tình nhà quê

13. Đặng Hiền (sinh năm 1939)

- Người học trò trên chuyến tàu năm ấy

- Chuyện học văn thời nhỏ

- Một giờ với một thế kỷ (ghi chép)

14. Tô Hoài (1920-2014)

- Vỡ tỉnh

15. Nguyễn Trí Huân (sinh năm 1947)

- Mặt cát (Ghi chép ở một xã anh hùng)

- Cặp bến (Bút ký)

16. Đinh Hùng (1920-1967)

- Tìm về những mùa xuân dĩ vãng

17. Nguyễn Văn Huyên (1908-1975)

- Danh sách các thần tiên Việt Nam

18. Nguyễn Quang Hưng (sinh năm 1980)

- Đất thiền (Tản văn)

- Trở về những quê hương tâm linh (Tản văn)

19. Đỗ Trung Lai (sinh năm 1950)

- Người chơi đàn nguyệt ở Hàng Châu

20. Trọng Lang (1905-?)

- Trong sương gió

- Làm tiền (Trích phóng sự)

21. Nguyễn Hiến Lê (1912-1984)

- Trên đường thiên lý (trích)

- Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm (Ghi chép)

- Làng tôi ngoài Bắc trong thời nông nghiệp. Ba hạng dân: giàu, trung lưu, nghèo (Ghi chép)

22. Vân Long (sinh năm 1934)

- Chiều êm ả ngấm như men rượu

23. Nguyễn Văn Phúc (1917-1983)

- Tôi với Tản Đà (trích)

24. Giang Quân (sinh năm 1927 -2016)

- Gian nan đi tìm quê

- Chuyện dân gian ở làng

25. Phạm Thanh Quý (sinh năm 1972)

- Cá chép tiến vua

- Miến làng So

26. Nguyễn Bắc Sơn (sinh năm 1941)

- Ba Vì, truyền thuyết và thực tại

- Làng Nủa đô thị hoá

27. Vương Tâm (sinh năm 1946)

- Đôi mắt Xứ Đoài

- Hồn xưa bóng tháp

- Nỗi nhớ số 111

- “Phượt” chợ làng nghề Hà Nội

28. Phạm Thị Phương Thảo (sinh năm 1959)

- Cây cầu sắt nhiều tuổi nhất

- Ba Vì có con bò vàng

- Làng chùa một ngày xuân

29. Quý Tháp (sinh năm 1944)

- Có một tổ ấm - mẹ hiền

- Cuộc chiến với thuỷ quái

30. Bùi Bình Thi (sinh năm 1939 -2016)

- Chuyện hàng xóm

- Tôi làm tạp chí của Hội nhà văn thời ấy

- Cà phê trong một cõi nhân gian

31. Kiều Xuân Thuỷ (sinh năm 1950)

- Mùa quả ngọt (bút ký)

32. Khuất Quang Thuỵ (sinh năm 1950)

- Chùa làng

33. Nguyễn Thị Anh Thư (sinh năm 1959)

- Nhớ dáng bà xưa (tản văn)

- Lặng lẽ Nguyễn Kiên

34. Nguyễn Hữu Thức (sinh năm 1955)

- Chuyện của sắn ở làng Sấu Chợ

35. Nguyễn Tuân (1910-1987)

- Trên đỉnh non Tản

- Chén rượu vĩnh biệt

- Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán

36. Hoàng Minh Tường (sinh năm 1948)

- Canada màu phong đỏ (bút ký)

- Mối tình tàu điện

- Đi tìm nhà văn Lan Khai

37. Trần Lê Văn (1923-2005)

- Ở xứ Đoài ngẫm bạn văn chương

38. Bằng Việt (sinh năm 1941)

- Trên những ngả đường miền Tây (nhật ký chiến trường)

39. Trần Chinh Vũ (sinh năm 1939)

- Nửa đời nhìn lại (hồi ức)

- Ở ngã ba công trường

40. Nguyễn Khắc Xương (sinh năm 1922-2018)

- Truyền thuyết Trưng Vương (trích)

          Có thể nói, những giá trị văn chương nói riêng về ký và tản văn của vùng đất nổi tiếng từ xưa mệnh danh là vùng Văn hoá Xứ Đoài có những đóng góp rất riêng, rất đặc trưng của Xứ Đoài vào văn chương vùng đất đế đô Thăng Long ngàn năm. Bản sắc riêng và độc đáo của vùng Văn hoá Xứ Đoài đã góp phần làm giàu thêm văn hoá Thủ đô.

Việt Kha

  • Thời tiết - Tỉ giá
  • Giá vàng
    Tỉ giá