Tóm tắt nội dung
-
Thăng Long - Hà Nội là vùng đất là trung tâm của nền văn minh sông Hồng. Tại vùng
đất địa linh nhân kiệt này đã hình thành một tầng lớp, một lớp người có phẩm cách,
khí tiết và cách ứng xử đặc trưng riêng: kẻ sỹ. Kẻ sỹ Thăng Long đã được tôn
vinh từ bao đời nay, là biểu tượng về trí tuệ cho nền văn hiến Thăng Long, đã được
minh chứng qua nhiều giai đoạn lịch sử. Công trình lần đầu tiên soi rọi toàn bộ
ưu điểm, đặc thù và những biểu hiện được minh hoạ cụ thể qua các giai thoại và
truyện kể sinh động về tầng lớp trí thức này.
-
Công trình là một cuốn biên khảo có chủ kiến và có minh chứng khoa học, đầy đủ,
hệ thống để độc giả có thể hiểu sâu hơn về giá trị tinh thần của trí thức Thăng
Long, từ đó có thể đặt vấn đề tiếp thu và phát huy thế mạnh đó của trí thức Thủ
đô trong thời kỳ mới.
Bình luận
* GS. Văn Tạo (Bình
luận đề cương)
Tôi
hoan nghênh việc thực hiện đề tài “Kẻ sĩ Thăng Long”. Tác giả đề cương
đề xuất nhiều ý kiến xác đáng cho nội dung cần thực hiện của đề tài, đi vào các
khía cạnh rất cần phải đi sâu, như về nguồn gốc xuất thân, trình độ tri thức,
đạo đức, phẩm chất, phong cách, khí tiết, các mối quan hệ ngang dọc, tư duy
khoa học, lối sống, cách thức ứng xử, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, cũng không
quên nói đến những hạn chế, khuyết, nhược điểm, cái mạnh, cái yếu của kẻ sĩ.
Bố
cục cuốn sách gồm 6 chương bao hàm những đề án cần thiết để có
được những đáp án vững vàng có sức thuyết phục.
Tôi
đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này, nay xin gợi ra những ý mà theo tôi đề cương
chưa nghĩ đến, hay đã nghĩ đến mà còn phải đi sâu nghiên cứu mới giải đáp được
trước khi viết ra:
1.
Khái niệm: “Kẻ sĩ” là ai? Thì ở đây còn mập mờ như viết (trang 1)
“lớp trí thức ưu tú dù làm nghề tự do”. Vậy trí thức không có
bằng cấp đi vào kinh doanh công nghiệp, thương nghiệp như Nguyễn Sơn Hà, Bạch
Thái Bưởi có phải là “kẻ sĩ” không?
Kẻ
sĩ nhất thiết phải có bằng cấp cao không?
2.
Tác giả ghi “Kẻ sĩ Thăng Long” và “Sĩ phu Bắc Hà”
dường như đồng nhất với nhau trong đề tài. Thực tế hai từ “kẻ sĩ” và “sĩ phu”
đã có khác nhau về tư duy khi nó xuất hiện ra thành ngôn ngữ, biểu hiện của tư
duy: Kẻ sĩ là chỉ nặng về khoa cử Nho giáo; sĩ phu là chỉ nặng về nhà khoa cử
có tham gia chính trị tức Nho sĩ xuất hiện trong chính
trường. Từ “Kẻ sĩ” là trọng về bằng cấp và tư duy Nho học. Sĩ phu là
trọng về tư duy, ý thức và hoạt động chính trị. Các ông Phan Bội Châu, Ngô Đức
Kế được gọi là “sĩ phu” chứ không chỉ liệt vào “kẻ sĩ”
3.
Về phạm vi không gian: không thể đồng nhất “Thăng Long”
với “Bắc Hà”. Sĩ phu Bắc Hà xuất xứ từ thời kỳ Nam Bắc phân
tranh. Thời Lê Trung hưng, Lê - Trịnh, Mạc: Sĩ phu Bắc Hà nổi tiếng hơn, và có
ý so với đối trọng là sĩ phu Nam
hà (chúa Nguyễn ở phương Nam). Kẻ sĩ Thăng Long thì mọi
người đều thuộc sĩ phu Bắc Hà, nhưng số sĩ phu Bắc Hà (tính từ sông Gianh,
Quảng Bình trở ra) như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp lại không thuộc “Kẻ sĩ Thăng
Long”, có nguồn gốc là “Kẻ sĩ Hồng Lĩnh”.
Với
những suy nghĩ trên, tôi thấy phải làm rõ “Ai là kẻ sĩ Thăng Long” đã rồi hãy
đi vào các mặt của “kẻ sĩ”.
Tôi
nghĩ tuy là kẻ sĩ, là sĩ phu nhưng phải gắn bó với Thăng Long mới được gọi là Kẻ
sĩ Thăng Long.
4.
Đề cương chưa đề cập đến tư duy, triết học, tư tưởng Nho giáo, mà điều này rất
cần thiết khi nói về cống hiến, khám phá, khí tiết và hạn chế của họ.
Nhìn
chung các trí thức phong kiến ở Thăng Long từ thời Lý đến Trần, Lê, Tây Sơn…
đều thuộc hệ tư tưởng Tống Nho. Mà Tống Nho lấy từ gốc Khổng Mạnh
mà ra, nhưng đã có biến hoá cho phù hợp với yếu tố mới của Pháp trị (Khổng Mạnh
còn nặng về nhân văn, nhân trị điều mà Hồ Chủ Tịch hay dẫn ra). Còn Tống Nho từ
Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di đã xiết chặt cương thường có tính áp chế nặng nề
như Lỗ Tấn đã phê phán. Tư Duy Tống Nho hạn chế tính sáng tạo của con người,
thích rập khuôn người xưa. Xã hội ta trì trệ lâu dài là ở chỗ ấy.
Nhất là đến thời Nguyễn, khi ở Trung Quốc, Minh Nho (mà tiêu biểu
là Vương Dương Minh) đã phát triển, đưa kinh tế hàng hoá và giao thông thương
mại lên, thì nó đã không nhập được vào “Kẻ sĩ Việt Nam”. Đến cả thời Nguyễn,
vẫn “đóng cửa khoá nước”, “bế quan toả cảng”.
5.
Do tư duy triết học kể trên chi phối nên khi xem xét Kẻ sĩ Thăng Long phải thấy
cái mạnh, cái yếu là ở chỗ nào? Nếu chỉ ca ngợi khí phách thanh liêm, tiết tháo
mà không thấy cái bảo thủ, trì trệ, lạc hậu thì nói gì ra, để
ngày nay trí thức noi theo?
6.
Ý định của Đề cương là làm rõ được một cách khoa học, hệ thống là
đúng, nhưng rất khó đấy.
Nếu
so với trí thức Nam hà thời Nguyễn sau này như Võ Trường Toản và
những học trò của ông là Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định… ta thấy
có cái gì đó phóng khoáng, tự do cởi mở hơn?
Tất
nhiên, thời Nguyễn, trung tâm khoa cử đào tạo trí thức đã chuyển về Huế, nhưng
cũng nhiều trí thức từ Bắc vào như khoa thi mà Phan Thanh Giản đỗ Tiến sĩ là đã
được lấy vớt làm Tiến sĩ để cho Nam Bộ có 1/10 Tiến sĩ khoa đó, còn 9 là từ
phía Bắc (từ Bắc Trung kỳ trở ra) trong đó có Tiến sĩ Đỗ Quang là nổi tiếng
tiết tháo, nhưng cuối cùng cũng là “Trả áo, trả quan” để chống lại đường lối
chủ hoà, đầu hàng của vua tôi Tự Đức mà thôi. Còn Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu
từ Nam
ra cũng là tử tiết với thành Thăng Long mà thôi?
Cho
nên, ý muốn “khoa học và hệ thống” đúng là khó lắm đấy.
Tôi
chỉ gợi ý để tác giả suy nghĩ thôi. Còn nhìn chung, Đề cương đã có cách nhìn
khá sâu sắc theo yêu cầu của Hà Nội hiện đại để tóm ra truyền
thống quý báu của trí thức từ ngàn năm Thăng Long văn hiến cần cho ngày nay kế
thừa.
Tôi
ủng hộ đề cương này.
Chúng
ta cứ quyết tâm đi vào, từ “cái khó sẽ ló cái khôn”. Hay là ta lấy tên đề
tài là Trí thức Thăng Long Hà Nội, không lấy “Kẻ sĩ”. Tôi mạnh dạn
nêu ra những gợi ý trên để chúng ta trao đổi thêm. Còn đi sâu thì khi có Đề
cương chi tiết mới nói thêm được.
Nhà xuất bản Hà Nội