Tóm tắt nội dung
- Sưu tập, tuyển chọn những
tác phẩm văn học nghệ thuật về đề tài Thăng Long - Hà Nội với ý nghĩa vinh danh
lịch sử, cuộc sống, con người và cảnh quan thủ đô qua ngàn năm văn hiến.
- Nhấn
mạnh cảm hứng và tư duy "du ký", những trang ghi chép, hồi ký, hồi
ức, kỷ niệm, tùy bút, bút ký, tản văn phản ánh sự cảm nhận và ấn tượng về
truyền thống Thăng Long - Hà Nội.
- Bao
quát khối lượng tài liệu phong phú, trải rộng từ hệ thống thần thoại, truyện cổ
tích, ca dao đến thơ ca đề vịnh, truyện ký tiêu biểu dưới thời trung đại, hiện
đại và đương đại.
- Mở
rộng từ văn chương tới việc thu nhận một số tranh ảnh, âm nhạc liên quan tới Hà
Nội để minh họa thêm. Đặc biệt chú ý những bài hồi ức, kỷ niệm liên quan đến
quá trình sáng tác các tác phẩm nghệ thuật về đề tài Hà Nội thời hiện đại..
Bình luận
* GS.TS.
Nguyễn Xuân Kính (Bình luận đề cương)
I/ Ưu điểm
Nếu xác định đây là một cuốn
sách sưu tập những tác phẩm tiêu biểu và phù hợp với nhan đề Ngàn năm thương
nhớ đất Thăng Long thì bản đề cương đã cho thấy nhóm biên soạn đã tìm được
một số tác phẩm phù hợp với chủ đề này. Tôi đặc biệt đánh giá cao những tác
phẩm được sưu tầm trên báo chí trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trên báo
chí ở miền Nam trước ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975. Một số chỉ dẫn cho
thấy PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn và các cộng sự đã tìm đến tài liệu gốc, chứ không
phải tài liệu thứ cấp (loại tài liệu sử dụng qua soạn giả khác).
II/ Góp ý và trao đổi
Bản đề cương mà chúng tôi
nhận được gồm 12 trang.
Lời dẫn (trang 3) chưa nêu
cụ thể, chi tiết quy cách tinh tuyển văn bản. Chẳng hạn, lấy nguyên từ bản gốc
hoặc có đính chính, sửa chữa hay không? Chẳng hạn, đối với vấn đề còn thảo luận
thì như thế nào? Tôi là người ngoại đạo, nhưng chắc PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn
biết rất rõ rằng GS. Hà Văn Tấn và PGS. Bùi Duy Tân đều khẳng định bài Nam
quốc sơn hà là không phải của Lý Thường Kiệt. Một số người khác tuy không
viết dứt khoát như PGS. Bùi Duy Tân, cũng viết “tương truyền là của Lý Thường
Kiệt”. Vậy viết như PGS. Nguyễn Hữu Sơn (trang 4) thì đã thoả đáng chưa?
Có khá nhiều tác phẩm không
thể hiện tình cảm của những người đi xa thương nhớ đất Thăng Long:
- Chiếu dời đô
- Truyện thần Long Đỗ
- Truyện Rùa vàng
- Sự cương trực của Chu
Văn An
- Nam quốc sơn hà
- Múa hát lý liên đời Lý
- Hình tượng rồng Thăng
Long thời Lý – Trần
- Mỹ thuật Thăng Long
thời Lý – Trần
- Khảo cổ Thăng Long thời
Lý – Trần
- Truyện kỳ ngộ ở Trại
Tây
- Truyện yêu quái ở Xương
Giang
- Truyện Hà Ô Lôi
- Góc thành Nam
- Long thành cầm giả ca
- Đài Khán Xuân
- Chùa Quán Sứ
- Đề đền Sầm Nghi Đống
- Cảnh Hà Nội
- Thạch Lam: Trước tết, tết và sau tết
- Nguyễn Đình Lạp: Phóng sự Hà Nội… giao thừa
- Nguyễn Tường Phượng: Nửa giờ với Chủ tịch Hồ Chí
Minh
- Trương Tửu - Thượng Sỹ - Nguyễn Đức Quỳnh: Cuộc
hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch với ba đại biểu Liên đoàn văn hoá.
- Nguyễn Tường Phượng: Cuộc hội đàm giữa Hồ Chủ tịch
với các nhà báo Hoa – Pháp – Việt – Mỹ.
V.v…
Vấn đề đặt ra là nếu để
những tác phẩm này thì phải đổi tên sách Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
Dù có đổi tên sách thì cũng
không nên đưa tác phẩm Sương xuân và hoa đào của Vũ Thư Hiên (trang 11)
vào sách này. Nhiều người biết Vũ Thư Hiên là người đã dịch rất thành công Bông
hồng vàng của Pautôpxki. Nhưng Vũ Thư Hiên cũng viết một số tài liệu chống
lại chế độ, nhà nước. Nhà nước ta cấp tiền để cho Nhà xuất bản Hà Nội thực hiện
Dự án Điều tra, sưu tầm, biên soạn và xuất bản Tủ sách “Thăng Long ngàn năm
văn hiến”. Cũng có những người trước đây chống lại nhà nước ta, nhưng bây giờ
do độ lùi của thời gian, do quan niệm khép lại quá khứ, nhìn về tương lai, nhà
nước ta đã cho họ về thăm Việt Nam. Nhưng vấn đề Vũ Thư Hiên còn khá mới, chưa
đủ độ lùi và sự phai nhạt, rất không nên đưa tác phẩm của ông ta vào sách này.
Ở trang 6 ghi “Minh hoạ hình
ảnh rồng, văn bia, kiến trúc thành cổ, đền, chùa, thư tịch Hán Nôm, di vật văn
hoá Hà Nội thế kỷ X - XVII”. Ở đây đang nói về “Văn hoá - văn học thế kỷ XV –
XVII” (trang 5). Vậy thế kỷ X là in sai.
Trang 10 ghi: “Lãng nhân
ánh đèn trong đêm tối”, chính xác là “Lãng Nhân…”
*
* *
Góp ý về THUYẾT MINH TỔNG
THỂ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN “TỦ SÁCH THĂNG LONG NGÀN NĂM VĂN HIẾN”
Bản thuyết minh này gồm 8
trang.
- Trang 3 ghi: “Tổng tập Văn học Việt Nam,
42 tập. Tái bản. Viện KHXH Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1984 - 2000…”. Ghi như
vậy là không chính xác. Xin thưa với PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn, Tổng tập văn
học Việt Nam là một bộ sách đồ sộ do GS. Đinh Gia Khánh làm Chủ tịch Hội
đồng biên tập. Theo kế hoạch ban đầu, bộ sách gồm 36 tập với khoảng hơn 40 quyển.
Năm 1980, Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố tập 1 và tập 36, tức là cắm hai
cái mốc đầu tiên và kết thúc của bộ sách. Rất tiếc, trong quá trình biên soạn,
do tình hình tư liệu, do có sự điều chỉnh trong việc đánh giá một số tác giả,
trào lưu văn học, đến năm 1997 là lúc in xong tất cả công trình, bộ sách không
chỉ không thống nhất về khổ sách giữa các tập mà còn vượt quá con số 36 tập,
tuy rằng một số tập đã phải chia thành tập A, tập B. (Thí dụ, tập 28 dành để
giới thiệu phần văn xuôi lãng mạn (các sáng
tác văn xuôi của Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, Thạch Lam, Xuân Diệu), do GS. Hà
Minh Đức làm chủ biên, công bố năm 1994, in thành hai tập 28A và 28B). Các tập
37A, 37B, 37C do GS. Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên, in xong năm 1996, dành để
giới thiệu văn học các dân tộc thiểu số.
Tập 1 và tập 36 xuất bản
trước Đổi mới (1986) là sáu năm. Bản đề cương tổng thể của bộ tổng tập này được
soạn trước năm 1980.
Tập 1 và tập 36 (in năm
1980) khổ sách 16 x 20cm. Sau này các tập khác in theo khổ lớn hơn (16 x 24cm),
thí dụ tập 3A xuất bản năm 1991 là in theo khổ 16 x 24cm. Năm 1997, những người
chủ trì phải in lại nội dung tập 1 và nội dung tập 36 với hình thức sách khổ 16
x 24.
Năm 2000 Nhà xuất bản Khoa
học xã hội tái bản Tổng tập văn học Việt Nam in thành 42 tập, trong lần
in này không có hình thức một tập gồm nhiều quyển nữa. Khi tổng thống Mỹ Bill
Clinton sang thăm nước ta, các vị lãnh đạo nước ta đã tặng tổng thống bộ sách
42 tập này.
Chúng tôi nói dài dòng như
trên để thấy: PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn đã ghi “42 tập. Tái bản” thì không thể
ghi “1984”. Con số 1984 đã không chính xác lại chẳng nói lên một điều gì. Năm
2000 là lúc tên của cơ quan chủ quản của Nhà xuất bản Khoa học xã hội là Trung
tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, đến ngày 15 tháng 1 năm 2004 Trung
tâm này mới đổi thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
Trước những thông tin về bộ Tổng
tập văn học Việt Nam, các sinh viên văn học năm cuối đều có thể tra cứu
trên mạng và tận mắt đọc sách tại các thư viện lớn ở Hà Nội. Những thông tin mà
ông Nguyễn Hữu Sơn ghi chưa thật chính xác sẽ làm cho người đọc băn khoăn rằng,
về văn bản, về những tài liệu xuất bản trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và
những tài liệu được xuất bản ở miền Nam trước ngày giải phóng (tức là những tài
liệu khó kiểm chứng hơn) thì mức độ chính xác của chúng trong cuốn sách do ông
Sơn chủ trì sẽ như thế nào? Chúng tôi nhấn mạnh điều này để các soạn giả càng
cẩn thận và càng chính xác bao nhiêu thì sau này sách của các vị sẽ càng có giá
trị và sức sống bấy nhiêu.
- Trang
5, dòng 9¯, dòng 18¯, dòng 3 tên các cơ quan ghi không chính xác, dòng 14 cộng tác viên Phạm Lan Oanh phải ghi thêm học vị TS.
Nhà xuất bản Hà Nội