Tóm tắt nội dung:
- Công trình nghiên cứu đầy đủ, hệ thống lịch sử phát sinh, phát triển của nghệ thuật
múa Hà Nội.
- Trên cơ sở lịch sử, địa lý, văn hoá xã hội và tính
cách người Hà Nội, tác giả đi sâu phân tích:
+ Đặc điểm tính cách nghệ thuật múa truyền thống Hà
Nội trong các lĩnh vực: lễ hội, tôn giáo, cung đình, sinh hoạt cộng đồng…
+
Nghiên cứu nghệ thuật múa Hà Nội thời hiện đại (các điệu múa trong cộng đồng,
các đoàn nghệ thuật múa chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp).
- Dành một chương cho các công trình lý luận về nghệ
thuật múa Hà Nội.
Bình luận
*NSND. Lê
Ngọc Cường (Bình luận bản thảo)
Ghi nhận và đánh giá cao tình cảm, tâm huyết, trình
độ, năng lực của nhóm tác giả.
Đây là công trình có giá trị, có ý nghĩa, có tác dụng
đáp ứng được nhiều đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, những người làm nghề và bạn
đọc.
- Từ đề cương tóm lược, tôi rất bất ngờ và thấy thú vị
khi đọc bản thảo chi tiết: từ lời nói đầu cho đến hết Chương III công trình đã
cung cấp được nhiều thông tin tư liệu có giá trị, cách trình bầy ngắn gọn, súc
tích.
- Từ lời nói đầu: tác giả nêu một số nhận định khái
quát, lý giải cách thức, phương pháp nghiên cứu, khái quát nội dung công trình
(có thể thấy phần này viết rất khéo, vừa đủ dung lượng).
* Chương Mở
đầu: Tổng quan nghệ thuật Múa Hà Nội:
Chương này khái quát tốt, không sa đà vào việc sao
chép lại tiến trình các sự kiện lịch sử mà nhiều công trình đã viết. Ở đây tác
giả đã biết điểm lược những sự kiện lịch sử có tác động trực tiếp đến quá trình
hình thành, phát triển nghệ thuật Múa của Hà Nội - Những sự kiện lịch sử trích
dẫn rất chọn lọc vừa đủ, viết ngắn gọn, có hệ thống, dễ theo dõi, dễ nhận biết,
có độ tin cậy, thuyết phục người đọc.
Tuy nhiên sau khi đọc kỹ toàn bộ Chương mở đầu tôi có
02 ý kiến đề nghị xem xét lại:
a) Căn cứ nội dung trình bầy đề nghị tác giả chỉnh sửa
lại tên các đề mục - cụ thể là:
- Tại mục 1. TÌM VỀ bối cảnh xã hội và sự ra đời của
nghệ thuật Múa Hà Nội trước nghìn năm Thăng Long - Hà Nội
Đề nghị chỉnh lại là: Bối cảnh xã hội và sự hình thành
phát triển nghệ thuật Múa Thăng Long - Hà Nội.
Viết như vậy sẽ ngắn gọn, không cần giải thích vì đây
là tiêu đề do đó không cần viết chữ: Tìm về….và bỏ cụm từ "múa Hà Nội
trước nghìn năm Thăng Long - Hà Nội ".
b) Thực chất chương này có 02 nội dung cơ bản là :
- Bối cảnh xã hội và sự hình thành phát triển của nghệ
thuật Múa Thăng Long - Hà Nội.
- Đặc điểm của nghệ thuật Múa giai đoạn này.
vì vậy không nên chia nhỏ thành 04 đề mục:
+ Tìm về bối cảnh…
+ Nghệ thuật Múa Thủ đô thời kỳ Thăng Long - Hà Nội.
+ Xây dựng nền nghệ thuật múa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc trên đất Hà Nội (đề mục này không đúng với nội dung của cả chương - lại
rất chính trị).
+ Đặc điểm tính cách nghệ thuật Múa Hà Nội (viết như
vậy không chuẩn vì múa trong các lễ hội không có TÍNH CÁCH vì vậy chỉ nên nhận
định một vài ĐẶC ĐIỂM của nó như thế nào - không dùng chữ "TÍNH
CÁCH".
c) Đề nghị sửa lỗi đánh máy trang 12 tại 02 dòng cuối
trang:
…năm 968 người giương Nữ cao ngọn cờ độc lập (sửa lại:
người dương cao ngọn cờ độc lập).
- Tiếp đến phần thứ Nhất: Nghệ thuật Múa truyền thống
Thăng Long - Hà Nội.
* Chương I:
Múa trong lễ hội cổ truyền.
Toàn bộ chương này có hàm lượng nội dung tốt, sưu tập
được nhiều tư liệu. Tác giả đã cung cấp cho người đọc thấy được sự phong phú,
đa dạng về hình thức và nội dung của các điệu múa dân gian trong các lễ hội trên
đất Thăng Long - Hà Nội; liệt kê, hệ thống được một loạt các điệu múa còn tồn
tại ở các vùng, các làng xã (kể cả vùng Hà Nội mở rộng hiện nay).
Đưa ra một số nhận xét về vai trò, chức năng của nghệ
thuật múa trong các lễ hội, kết hợp lồng ghép giữa việc miêu tả cụ thể các
trình thức, cách thức tổ chức, nội dung, ý nghĩa của các điệu múa, giúp cho
người đọc có nhiều thông tin, hiểu biết mới.
- Tuy nhiên căn cứ nội dung trình bày, đề nghị tác giả
cũng xem lại các đề mục (hiện nay 4 đề mục không gắn kết với nội dung trình
bày), cụ thể là:
1. Lễ hội dân gian - môi trường tồn tại TRUYỀN THỐNG
của các điệu múa cổ (tối nghĩa).
1.1. Múa dân gian trên đất Thăng Long - Hà Nội.
1.2. Môi trường tồn tại TRUYỀN
THỐNG của các VŨ ĐIỆU dân gian cổ.
2. Vai trò của múa trong
lễ hội.
Thực chất chương này chỉ
có 2 nội dung cơ bản là:
+ Lễ hội dân gian - môi
trường tồn tại phát triển của nghệ thuật Múa.
+ Nghệ thuật múa - một
thành tố quan trọng trong các lễ hội (trong đó nói luôn đến vai trò, chức năng
của múa trong lễ hội).
- Nếu tác giả chia nhỏ ra
4 đề mục, ta thấy vô lý, máy móc, cố tạo cho công trình có cái vẻ khoa học
nhưng lại rối rắm, tối nghĩa.
* Chương II: Múa Tín ngưỡng và Tôn giáo.
Toàn bộ chương này tác
giả trình bày công phu, có nhiều nhận định sắc nét, nắm vững nhiều tư liệu, thể
hiện sự hiểu biết phong phú, sưu tầm nghiên cứu kỹ càng, vừa tiếp cận gần, vừa
đứng xa để quan sát để có cái nhìn tổng thể rồi mới trình bày. Về tổng thể nội
dung là tốt, song có mấy ý đề nghị sau:
Tại mục 2.1: Tính thống
nhất trong tín ngưỡng và tôn giáo người Việt (trang 74). Ở mục này tác giả đã
liệt kê các thời kỳ văn hóa đồ đá gồm có:
Đồ đá cũ
Đồ đá giữa
Đồ đá mới
Đến thời kỳ văn hóa đồ
đồng gồm có:
Sơ kỳ
Trung kỳ
Hậu kỳ
Cả hai thời kỳ này tác
giả chỉ đưa ra mấy cái tên mà không thấy có phân tích, dẫn chứng, lý giải gì về
nó để đi đến kết luận: "từ thuở bình minh của đất nước, từ thời Văn Lang
Âu Việt đến nay, người Việt Nam đã xây dựng thống nhất một nền văn hóa trong đó
lấy văn hóa người Việt (người Kinh) làm nền tảng chính và được thể hiện qua 02
dòng văn hóa Tín ngưỡng và văn hóa Phật giáo.
Nếu ở trên chỉ liệt kê
tên mà ở dưới nhận định, kết luận như vậy không ai hiểu, không đủ sức thuyết
phục (mặc dù kết luận rất đúng, đúng so với những người đã biết, đã nghiên cứu
còn đối với người chưa biết gì thì không đủ thuyết phục).
- Về mặt trình bày: tác
giả khảo sát văn hóa Phật giáo trước rồi mới trình bày khảo sát văn hóa Tín
ngưỡng là ngược đời vì văn hóa Tín ngưỡng có trước, Phật giáo có sau.
- Nội dung khảo cứu cả
hai phần này cũng còn sơ sài.
- Đề mục 2.2: Mỗi quan hệ
giữa nghệ thuật Múa với tín ngưỡng Tôn giáo (trang 75) - Nội dung này viết còn
sơ sài chưa nêu bật được mối quan hệ của Múa với tín ngưỡng Tôn giáo.
Đặc biệt đến mục 2.3: MÚA TÍN NGƯỠNG cần có một số
nhận định khái quát về các hình thức tín ngưỡng Đa thần - không nên vào ngay
tín ngưỡng Hầu đồng. Tác giả nên tóm lược liệt kê một số lễ thức tín ngưỡng sơ
khai gắn liền với 03 chu kỳ: đời người (ma chay, cưới hỏi, sinh đẻ); chu kỳ cây
trồng và các lễ hội cộng đồng.
- Cũng trong chương này - mục 2.4: MÚA PHẬT GIÁO
(trang 100): tác giả chỉ để tâm dành công sức liệt kê các chùa ở Thăng Long -
Hà Nội và miêu tả các tượng thờ từ đời Lý Thái Tổ xây chùa gì, Lý Thái Tông xây
chùa gì - tượng thờ thì kể ra có tượng A Di Đà, tượng Tam Thanh, tượng Quan Âm,
La hán… sau đó nhận định luôn về đặc điểm của múa Phật giáo được mấy dòng sơ
sài rồi đi vào liệt kê miêu tả các hình thức múa chạy đàn, múa cầu siêu, múa
Thiên long Bát bộ...
- Ở đây có lẽ nên đảo lại các đề mục: Sau khi giới
thiệu các chùa, các tượng thờ thì nói đến các điệu múa, sau đó mới nhận định về
đặc điểm sẽ khoa học hơn, hợp lý hơn về mặt cấu trúc.
* Chương
III: Múa trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Nội dung chương này có nhiều tư liệu, thể hiện rõ khả
năng hiểu biết của nhóm tác giả khi viết về các điệu múa cổ, song phương pháp
trình bày khá lộn xộn, không nhất quán dàn bài, mỗi điệu múa trình bày một
kiểu; nên chăng phải thống nhất cách viết:
+ Có phần giới thiệu chung địa điểm, xuất sứ, ý nghĩa
của điệu múa, sau đó miêu tả trình tự các trình thức diễn ra, trang phục, đạo
cụ, cuối cùng là nhận xét, cảm nhận của tác giả.
Dàn bài chung sẽ thống nhất trong cách viết ở tất cả
các điệu múa giúp người đọc lĩnh hội thuận lợi.
+ Khi nhận xét, đánh giá các điệu múa cổ không nên
"truy danh tục nghĩa" ngày xưa các cụ không có khái niệm "chủ đề
tư tưởng của tác phẩm" và cũng không có phương pháp sáng tác theo kiểu
dùng "môtip chủ đạo để phát triển".
Các thành tố tham gia trong một nghi lễ có chức năng
riêng nhằm mô phỏng, diễn đạt cái gì, có ý nghĩa gì, vì vậy tác giả không nên
nhận xét theo quan điểm lý luận văn học cách mạng, dùng những khái niệm, thuật
ngữ quá mới mẻ (đọc thấy vô lý lắm).
- Phần nội dung trình bày: múa trong Múa Rối và múa
trong sân khấu Chèo cần xác định lại nội dung viết cái gì ? Đây không phải bản
tổng kết. Đọc 2 nội dung này tôi không hiểu tác giả muốn nói điều gì ở công
trình này. Nguy hại hơn đến phần tiểu kết của chương III, tác giả trích dẫn một
câu viết về nghệ thuật cổ đại Hy Lạp thay cho lời kết thì toàn bộ chương III sẽ
vô nghĩa (trang 147), xin trích lại: "Tựu trung lại, Múa như trong một
đoạn viết vế nghệ thuật cổ đại Hy Lạp: dẫu nhảy múa lúc này chỉ đóng vai trò là
một cuộc vui chơi của dân chúng - nhưng sự có mặt của Múa đã làm tăng tính hoạt
náo của lễ hội" ... "Múa thật sự đã đóng góp tích cực vào cuộc sống
tinh thần của công chúng".
Nhận xét và kết luận như vậy quả là phàm tục.
Chúng ta ai cũng biết Múa trong các lễ hội văn hóa dân
gian là một thành tố quan trọng, có chức năng dâng hiến, giao tiếp với thần
linh. Nó không hề có chức năng làm trò mua vui cho thiên hạ (kính mong tác giả
rút lại lời nhận xét này).
* Chương IV:
Múa cung đình Thăng Long
Chương này thể hiện rõ công sức tra cứu, trích dẫn các
nguồn tư liệu trong nhiều cuốn sách: Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông
giám cương mục, Hoàng Lê Nhất thống chí, An Nam chí lược và nhiều công trình
nghiên cứu, chuyên khảo về âm nhạc, về chèo, ca trù ... Tác giả đã sắp xếp có
hệ thống theo tiến trình lịch sử những vấn đề có liên quan đến Múa, giúp người
đọc có cái nhìn hệ thống, đầy đủ, hiểu biết thêm về Múa trong Cung đình Thăng
Long.
- Tuy nhiên cũng đề nghị tác giả không nên nhận xét và
miêu tả một số điệu múa Cung đình theo lối tư duy hiện đại vì xưa kia làm gì có
"thủ pháp kết cấu", "thủ pháp đan xen", "ngôn ngữ chủ
đạo" để phát triển theo kiểu Nếch Môtíp - Đề nghị bỏ mục VIII: Bản sắc của
Múa Cung đình (trang 186) không có ý nghĩa gì.
- Phần thứ hai: Nghệ thuật Múa Hà Nội thời hiện đại.
* Chương V:
Múa trong lễ hội hiện đại (trang 187)
Chương này tác giả tóm lược 5 kịch bản lễ hội:
Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội
Đại hội Thể thao Đông Nam Á (Sea Games 22)
Đại hội Thể dục Thể thao Thủ đô lần thứ 5.
Ngày hội văn hóa các dân tộc Tây Bắc tại Hà Nội.
Liên hoan Du lịch quốc tế tại Hà Nội.
Tôi không hiểu tác giả
tóm tắt 5 kịch bản trên để làm gì ? Chương này phải xác định xem nội dung cần
trình bày cái gì, không phải viết lại kịch bản (nếu cần tác giả bỏ tiền tự in
riêng một cuốn kịch bản).
* Chương VI: Nghệ thuật Múa không chuyên Hà Nội.
Chương này cũng quá yếu,
không biết mục đích viết chương này để làm gì, qua nội dung đọc tôi thấy:
Không phải bản tổng kết
Không phải lịch sử phát
triển nghệ thuật Múa không chuyên.
Không phải bản nhận
định, đánh giá.
Không phải bản tường
thuật, miêu tả
Không phải bản ghi chép
kể chuyện.
Với 16 mục, mỗi mục một tý, trình bày lộn xộn (đang nói ý nọ xọ qua ý
kia).
Đề nghị tác giả xác định
lại nội dung của chương này.
* Chương VII: Nghệ thuật Múa chuyên nghiệp Hà Nội.
Chương này nên viết theo
cách tổng thuật quá trình hình thành phát triển nghệ thuật Múa chuyên nghiệp
của Hà Nội và nêu lên vai trò, vị thế của nghệ thuật Múa trong tiến trình phát
triển chung của văn học nghệ thuật, tránh sa đà liệt kê quá nhiều tên tuổi các
nghệ sĩ, các nhà giáo ở các trường, các đoàn trong khi những nghệ sĩ của Hà Nội
lại không thấy điểm mặt.
* Chương VIII: Những công trình
nghiên cứu về nghệ thuật Múa Hà Nội.
Chương này cũng nên đưa
ra một số nhận định chung, không sa đà vào mọt công trình cụ thể. Đọc cả chương
này cho ta cảm giác tác giả đã từng được mời thẩm định một, hai công trình nào
đó nên chép lại những nhận xét của mình về công trình đó, như vậy sẽ rất thiên
lệch, không có cái nhìn toàn diện, vô hình chung tác giả đã ưu ái hướng người
đọc vào 1, 2 công trình mà xem nhẹ các công trình khác.
- Cuối cùng đề nghị nhóm
tác giả đọc lại để chỉnh lỗi đánh máy.
- Thống nhất khái niệm
Đương đại hay Hiện đại (trong đề cương viết Truyền thống và Đương đại - nhưng
khi viết lại dùng khái niệm Hiện đại).
Nhà xuất bản Hà Nội