Tóm tắt nội dung:
- Đề tài
nghiên cứu tiến trình lịch sử khu vực Hà Nội từ khi phát hiện dấu tích con
người đầu tiên (khoảng 50.000 năm cách ngày nay cho đến khi vùng đất này được
chọn làm kinh đô Thăng Long của nhà Lý). Những tư liệu khảo cổ học và cổ sử
được tập hợp và phân tích một cách khoa học nhằm tìm hiểu và giải thích bản
chất “kinh kỳ” mang tính tất yếu và tự nhiên của vùng đất này trong tiến trình
lịch sử dân tộc.
- Được coi như chuyên khảo đầu tiên tập
trung giới thiệu và làm rõ những vấn đề về thời tiền sử, sơ sử và sử sớm dựa
trên nguồn tư liệu và phương pháp tiếp cận chính là khảo cổ học, tiền sử học
hiện đại.
- Dựa trên việc giới thiệu và phân tích
các hiện tượng khảo cổ học, tiền sử học, đề tài này nghiên cứu, đong lường một
cách khách quan ý nghĩa trung tâm của vùng đất Hà Nội - cái lý thật để Lý Công
Uẩn quyết định dời đô và khiến trường tồn hàng ngàn năm nay một Thăng Long trái
tim Tổ quốc.
- Đề tài đặt Hà Nội trong một khung cảnh
“vùng văn hoá - lịch sử” chứ không đóng khung trong giới hạn hành chính
hiện tại. Đây là cách đặt vấn đề khoa học, bởi lẽ cái vĩnh hằng của một vùng đất
chính là ý nghĩa địa lý nhân văn của nó chứ không phải là khung hành chính luôn
bị biến đổi. Lịch sử Hà Nội cũng không bao giờ là lịch sử đơn thân. Lịch sử
chứng minh tính hội tụ, tứ chiếng đã tạo lập Thăng Long, và ở mỗi đời vua chúa
Thăng Long lại ghi nhận dấu ấn của một hội tụ dân cư, văn hoá mới. Nhưng dù ở
đâu đến, ở thời nào, cái lõi Thăng Long vẫn hoà tan mọi yếu tố ngoại nhập để
giữ mãi một bản sắc Thăng Long - Hà Nội.
- Đề tài cũng dành một phần đáng kể xây
dựng catalogue các di tích khảo cổ, lịch sử và tôn giáo có liên quan đến “Hà
Nội cổ xưa” để giúp các nhà nghiên cứu, giáo viên và các nhà hoạt động văn hoá
- xã hội cũng như những người yêu thích sử tiện tra cứu.
- Là
một công trình nghiên cứu chuyên sâu nhưng được tác giả chuyển tải đến bạn đọc
qua một cuốn sách nhẹ nhàng, thú vị. Những thông tin, tư liệu của cuốn sách hấp
dẫn, mới mẻ, thu hút được sự quan tâm của người đọc.
Bình luận
* PGS. Bùi Đình Thanh (Bình luận bản
thảo)
Tuy là cán bộ
nghiên cứu lịch sử nhưng đối với tôi ngành chuyên sâu khảo cổ học hầu như là
ngoại đạo. Do đó, khi được đọc công trình nghiên cứu này, điều chủ yếu đối với
tôi là tiếp thu kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn. Tôi có những nhận xét
dưới đây khi đọc công trình nghiên cứu:
1.
Về các khái niệm tác giả đặt ra trong
công trình
Một công trình
nghiên cứu khoa học thường được chú trọng đầu tiên bởi những khái niệm được đặt
ra. Có khi đề tài nghiên cứu không mới nhưng do cách tiếp cận của tác giả với
những khái niệm mới nên đem lại những ý tưởng mới, nội dung mới.
Trong công
trình này, tôi chú ý đến những khái niệm sau đây:
a. Khái niệm về phạm vi thời gian mà cuốn sách đề cập
đến khi nghiên cứu tiến trình lịch sử hình thành vùng đất sẽ tạo ra kết tinh
Thăng Long - Hà Nội khi mà vùng khu trũng vịnh Hà Nội cổ được sông Hồng với phụ
lưu dải phù sa do quá trình tan băng toàn cầu sau 18.000 năm và biển tiến tạo
ra bộ mặt của một đồng bằng cửa sông ven biển lớn vào loại nhất khu vực và cội
nguồn Thăng Long - Hà Nội gắn liền với đồng bằng đó.
b. Khái niệm về phạm vi không gian. Tác giả đã áp dụng
lý thuyết “vùng địa lý - văn hóa - lịch sử” để nghiên cứu Hà Nội tiền Thăng
Long mà không bị phụ thuộc vào những biến đổi địa lý hành chính của địa danh Hà
Nội qua những thời kỳ lịch sử trước Thăng Long.
c. Tác giả đã không theo cách phân kỳ cổ điển của khảo cổ học
truyền thống với các thuật ngữ: thời đại đồ đá (đá cũ, đá giữa, đá mới), thời
đại đồ đồng, thời đại đồ sắt mà sử dụng các thuật ngữ phân kỳ theo hình thái
kinh tế - xã hội. Tôi đồng tình với cách phân kỳ này, vì trên thực tế, không có
sự phân biệt ranh giới rạch ròi giữa các thời đại đó mà luôn luôn có sự đan
xen, gối đầu, quá độ từ thời đại này qua thời đại kia. Tính quá độ
(transitoire) là một đặc trưng của quá trình phát triển lịch sử, dù cổ đại hay
hiện đại, như ngày nay, những người cộng sản khái niệm về tính chất của thời
đại là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nhân học văn hóa
người Pháp Maurice Godelier đã có một công trình nghiên cứu khá sâu sắc về vấn
đề này. Chính trên quan điểm nói trên, tác giả có sự phân tích khá thuyết phục
khi chứng minh có sự tồn tại song hành ở những địa vực sống truyền thống khác
nhau giữa những nhóm cư dân tiền sử Hòa Bình, Sơn Vi. Theo quan điểm đó, lối
sống Sơn Vi ở ngoài các vùng hang động có thể tồn tại từ 30.000 năm trước, thậm
chí sớm hơn, cùng song song tồn tại với lối sống Hòa Bình (Bắc Sơn) kéo dài tới
tận 34000 năm cách ngày nay.
Tuy nhiên, ở
phần này cũng có một điểm nhỏ góp ý với tác giả. Tác giả dịch ba thời đại khảo
cổ kiểu truyền thống (theo tiếng Anh là three ages system hoặc three areas of
orchaelogy) là tam đoạn luận (tr.30 - 31). Theo tôi, cách dịch đó không chính
xác vì từ lâu đã hình thành cách dịch tam đoạn luận cho từ syllogisme. Một thí
dụ về tam đoạn luận: Toret homme est mortel. M2: X. est un homme -
Donc, M2: X. est mortel. Mọi người đều có lúc chết. Ông X. là một
con người. Vậy thì ông X. cũng có lúc chết.
d. Khái niệm về người Việt cổ đại. Chúng ta đều biết rằng lịch
sử hình thành người Việt khá phức tạp. Nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu trong
nước và ngoài nước đã dành nhiều công sức để nghiên cứu vấn đề này. Trong công
trình nghiên cứu này, tác giả đã tận dụng kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan…) kết hợp với các công trình nghiên cứu
của Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á mà tác giả cuốn sách là một trong những người
sáng lập dễ đi sâu vào cội nguồn vấn đề, tìm ra mối quan hệ giữa một khối cư
dân lớn gồm nhiều tộc người khác nhau sống ở phía Nam những người tộc Hoa Hạ
được ghi chép chung là ‘Yue” mà chúng ta thường dịch là Việt với ý nghĩa đó là
tổ tiên của người Việt (Kinh).
Trong thực tế,
thuật ngữ “Yue” bao hàm cả tổ tiên các nhóm tộc Nam Trung Quốc khác nữa như
Tày, Thái, Choang, H’Mông, Dao và các nhóm Việt khác mà người Việt hiện nay chỉ
là một trong số đó.
Tác giả đã nhấn
mạnh khối người được coi là “Yue” sống xa người Hoa Hạ nhất là những người Lạc
Việt. Sự thâm nhập trực tiếp của người Hoa Hạ vào khu vực Lạc Việt, diễn ra rõ
rệt nhất vào thời Tần Thủy Hoàng thế kỷ III trước CN. Sự phân tích này giúp chúng ta hiểu được tính
chất Nhà nước Nam Việt của Triệu Đà và Nhà nước Âu Lạc.
đ. Khái niệm về địa danh Cổ Loa
Trong công
trình nghiên cứu của tác giả, Cổ Loa không chỉ giới hạn trong phạm vi thành Cổ
Loa với ba vòng thành xuất hiện sớm nhất từ thế kỷ III trước CN mà là một khái
niệm rộng lớn hơn để chỉ một vùng văn hóa trồng lúa sớm khi vùng đất này được
chọn làm thủ đô của nước Âu Lạc đầu thế kỷ II trước CN. Đây là một vùng văn hóa
lịch sử xuất hiện vào loại sớm nhất ở Hà Nội.
2.
Về nội dung và bố cục của công trình
nghiên cứu
Theo tôi, nội
dung căn bản của công trình nghiên cứu này có nhiệm vụ cung cấp cho người đọc
những hiểu biết tương đối đầy đủ, toàn diện, cập nhật về lịch sử Hà Nội thời
tiền Thăng Long, không quá đi sâu vào chuyên ngành khảo cổ, không quá “bác
học”, nhưng phải có tài liệu và sự đánh giá “đủ và cần” giúp cho người đọc có
những hiểu biết tương đối cơ bản về một thời lịch sử xa xưa của Hà Nội nhưng
lại rất gần với thời hiện đại. Để đạt được mục đích đó thì việc bố cục công
trình nghiên cứu là rất quan trọng.
Trừ chương Mở
đầu và phần Kết luận, trong 8 chương còn lại, tác giả đã thể hiện rõ sự bám sát
nội dung chủ đề công trình nghiên cứu.
Các chương 1 và
2 đã cho người đọc thấy quá trình lịch sử hình thành địa chất và cảnh quan tiền
sơ sử Hà Nội với sự biển tiến và hình thành đồng bằng sông Hồng trẻ và vết tích
con người đầu tiên khai thác vùng đất Hà Nội.
Chương 3 trình
bày những cư dân trồng lúa đầu tiên ven vịnh Hà Nội.
Chương 4 phân
tích sự biển thoái và sự hình thành vựa lúa đầu tiên ở hạ lưu sông Hồng và
những hệ quả xã hội.
Các chương 5 và
6 là những chương rất cơ bản phân tích những vùng kinh tế - văn hóa Đông Sơn
trên nền vựa lúa vịnh Hà Nội cổ, sự manh nha những trung tâm thủ công nghiệp,
sự hình thành mạng giao lưu rộng khắp trên đồng bằng trẻ sông Hồng, bức tranh
lương thực, đời sống vật chất, văn hóa, xã hội cổ truyền Đông Sơn, sự ra đời
Nhà nước Âu Lạc, văn minh Đông Sơn đạt đến đỉnh cao và vai trò lịch sử của An
Dương Vương, người đã chọn Cổ Loa làm kinh kỳ đầu tiên của Việt Nam hơn 1000
năm trước Lý Công Uẩn.
Chương 7 trình bày Hà Nội dưới những quyền lực mới của thời Bắc thuộc.
Tư tưởng chủ đạo của chương này là chuyển dần từ Giao Chỉ Hán sang Giao Chỉ
Việt.
Tính chất lý
thú của chương này là ở chỗ nếu xét về mặt nghiên cứu nhân học lịch sử và nhân
văn thì có thể xem đấy là biểu hiện đầu tiên của sự tiếp biến văn hóa
(acculturation) giữa Việt Nam cổ đại và Trung Quốc. Nếu xét về mặt chính trị
thì có thể xem kẻ xâm lược có đưa đến những yếu tố văn hóa Hán làm phong phú
thêm văn hóa Việt, nhưng đồng thời cũng nhận trở lại ảnh hưởng của văn hóa Lạc
Việt.
Chương này đã
dẫn đến lôgic tất yếu là ý thức độc lập dân tộc ngày càng phát triển từ Lý Bí,
Phùng Hưng, cha con họ Khúc, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền đến Đinh Bộ Lĩnh, Lê
Hoàn và cuối cùng là chương 8 với sự dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.
3.
Về phương pháp luận và phương pháp biên
soạn
Một công trình
nghiên cứu về tiền sử và sơ sử thì chủ yếu phải căn cứ vào tài liệu khảo cổ học
là lẽ tất nhiên. Trong điều kiện tài liệu khảo cổ học còn có những mặt hạn chế,
tác giả đã áp dụng phương pháp luận liên ngành, từ địa chất học, sử học, dân
tộc học, nhân chủng học, văn hóa học, ngôn ngữ học lịch sử và so sánh, thực vật
học… để cố gắng làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong điều kiện cho phép. Một điều
đáng chú ý là tác giả rất tôn trọng khoa học, không vũ đoán, không “cưỡng bức”
lịch sử và đã nêu lên những vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu như:
-
Gần như rất hiếm khi khảo cổ học phát hiện được bằng chứng của việc luyện quặng
chế đồng trong thời đại kim khí ở Việt Nam.
-
Hiện chúng ta còn thiếu những bằng chứng trực tiếp của nghề trồng dâu, nuôi tằm
lấy sợi.
-
Về chữ viết thời Hùng Vương, cho dù yêu nước thế nào chăng nữa, cũng cần rất dè
dặt.
-
Cho đến hiện nay, chúng ta vẫn thiếu những bằng chứng niên đại chắc chắn khẳng
định lúa đã tồn tại trong khung cảnh sinh sống của cư dân văn hóa Hòa Bình thời
cánh tân và đầu toàn tân.
-
Có lẽ do thời gian tồn tại của An Dương Vương ở Cổ Loa không dài, chỉ chừng
trên dưới 50 năm, nên mặc dù đã rất cố gắng, các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm được
những bằng chứng chắc chắn dấu vết kiến trúc của một “triều đình” Âu Lạc. Những
khu mộ táng của quý tộc Âu Lạc cũng chưa thấy. Về phương pháp, tác giả thể hiện
rõ thái độ trân trọng đối với những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi
trước, đồng thời cũng nói rõ những luận điểm nghiên cứu của mình với những vấn
đề đang có ý kiến khác nhau.
Phương
pháp thử nghiệm việc phục chế các tên và lẫy nỏ thời Âu Lạc rất hay. Phương
pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic dược tác giả vận dụng khá nhuần
nhuyễn.
Nhìn
chung lại, tôi đánh giá cao sự nỗ lực của tác giả đã bám sát đề cương, biên
soạn một công trình nghiên cứu công phu xứng đáng với kỷ niệm lịch sử 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội. Để hoàn chỉnh bản thảo, đề nghị:
-
Sửa chữa những lỗi đánh máy sai chữ nước ngoài (tôi đã có
sửa trong bản thảo).
- Tr.58: thiếu chú thích về thế cân bằng
của ba thế đất.
-
Tr.228: từ pendant
dịch là khánh - nên dịch là hoa tai hoặc khuyên thì đúng hơn.
- Tr.319: không có trích dẫn nguyên văn và
bản dịch thần tích ngôi đền Long Hưng điện như chú thíc ghi.
-
Tr.347: mật độ dân số Giao Chỉ là trên 10 khẩu/m2.
Phải là 10 khẩu/km2 chứ!
Nhà xuất bản Hà Nội