Minh thực lục: Tư liệu về Thăng Long thế kỷ XIV - XVII
Tóm tắt nội dung:
Thực
Lục là một thể tài sử thư, chuyên ghi chép những sự kiện lớn nhỏ trong suốt
thời gian trị vì của một hoàng đế, đồng thời cũng ghi chép tiểu truyện của các
văn thần võ tướng trong triều vua ấy.
Minh Thực Lục, gồm 13 Thực
Lục (3.053 quyển), khoảng bốn
mươi ngàn trang, là bộ sử chép việc xẩy ra trong gần 300 năm lịch sử triều Minh
(1368-1644). Minh Thực Lục là bộ sử lưu hành hạn chế trong triều đình, nên
đương thời người dân chưa từng được xem. Minh
Thực lục - về thể loại - được giới sử
học Trung Quốc hiện đại định tính là “biên niên thể sử liệu trường biên”
Việt Nam là nước láng
giềng được chép nhiều nhất trong Minh Thực Lục, cuốn sách này gồm 1.329 văn bản (là toàn bộ các văn bản) liên quan đến Đại Việt và Champa; trong khi
các nước khác như Singapore, Mã Lai chỉ được đề cập trong vài chục văn bản.
Do
vậy, cuốn sách dịch Việt các tư liệu sử
liên quan tới Việt Nam (Đại Việt và Champa) trong “Minh Thực lục” là một tư liệu tối thiểu và quý báu cho giới
sử học và những người yêu sử; cung cấp cho giới nghiên cứu và bạn đọc toàn cảnh
quan hệ giữa nhà Minh với Đại Việt và Champa thể hiện trong Minh Thực lục thông
qua bản dịch của 1.329 văn bản
gốc mà dịch giả đã rà soát thu thập và dịch từ nguyên bản.
Bình luận sách
*
PGS. Trần Nghĩa (Bình luận bản thảo)
Tôi đã nhận được tập bản
thảo “Minh thực lục: Quan hệ Việt - Trung thế kỷ XIV - XVII” do NXB Hà Nội gửi
tới để đọc và góp ý. Tập bản thảo này gồm 2 phần chính:
- Lời mở
- Phần tuyển dịch, hiệu
đính, chú thích
Sau đây là một số nhận
xét của tôi về từng phần.
1. Về tiêu đề sách: Hiện có nhiều cách gọi
không nhất quán về tiêu đề sách như:
- “Minh
thực lục: Tư liệu về Thăng Long thế kỷ XIV-XVII” (Lời mở, tr.1, tr.44).
- “Minh thực lục:
Quan hệ Trung Hoa - Việt Nam
thế kỷ XIV-XVII” (Lời mở, tr.38, tr.41).
- “Minh thực lục:
Quan hệ Việt - Trung thế kỷ XIV-XVII” (Thư mời tham gia Hội đồng nghiệm thu
của NXB Hà Nội).
Vậy cần có một tên gọi
hợp lý và thống nhất cuốn sách. Chẳng hạn “Minh thực lục và phần ghi chép về
quan hệ Việt - Trung trong bộ sách”. Với một tiêu đề như thế, những người
biên soạn trong phần Mở đầu, có thể giới thiệu kỹ một chút về Minh thực lục
và sang phần 2, phần tuyển dịch, sẽ đi sâu vào quan hệ Việt - Trung trong giai
đoạn XIV - XVII, thời gian tồn tại của nhà Minh.
2. Phần Mở đầu (Dẫn luận
hoặc Tổng quan):
Tác giả đã tiếp cận văn
bản theo nhiều góc nhìn khác nhau và trên cơ sở các nguồn thông tin, tư liệu
dồi dào, người viết phần Mở đầu đã cho ta thấy quá trình hình thành “Minh
thực lục” cũng như giá trị nhiều mặt của nó, đặc biệt là phần ghi chép liên
quan tới Việt Nam mà giới nghiên cứu của ta chưa khai thác được hết.
Bên cạnh ưu điểm nổi bật trên, tôi có một chút băn
khoăn là giữa phần giới thiệu Minh thực lục với phần giới thiệu về quan
hệ Việt - Trung trong Minh thực lục có không ít chỗ trùng lặp, làm sao tránh
bớt để bài viết đỡ cảm giác lộn xộn, nặng nề như hiện thấy.
3. Về khảo dị và hiệu
đính:
Nhóm biên dịch đã bỏ
nhiều công sức để làm phần khảo dị và từ đó có những hiệu chỉnh rất xác đáng,
mang tính khoa học cao.
Tuy nhiên, có chỗ theo
tôi cần xem lại:
- Trích đoạn số 51,
tr.57, chú thích 3: nguyên văn viết “vô vi họa thủ, vô vi phúc tiên”, người
hiệu đính ngờ câu này lấy ý từ câu trong sách Lễ ký, thiên Đàn cung
hạ “Vô vi nhung thủ, bất điệc thiện hồ”, và dịch là “chớ đùa với mối họa để
mang phúc đến” (tr.56). Theo thiển ý, chữ “vi” thứ 2 có thể là viết (hoặc đọc)
nhầm chữ “ninh” thành “vi”. Câu đúng phải là “vô vi họa thủ, vô ninh phúc
tiên”, “vô ninh” ở đây dịch sang tiếng Việt là “thà”, cả câu trên có thể dịch là
“dấy họa chi bằng đạo phúc”. Ý này còn được nhắc lại trong trích đoạn số 54,
tr.58: “đừng kết thù dai, để dân được yên”...
4. Dịch: Nói chung là
nắm vững nội dung văn bản và dịch tốt. Nhưng cũng có một số chỗ cần soát lại
như:
- Trích đoạn 54, tr.59,
chú thích 1. Nguyên văn: “Hữu quả, giả quả măng hành nhân dĩ hợp thiên đạo”,
chữ “quả” thứ nhất được hiệu đính là “quốc” như các dị bản khác, điều hoàn toàn
đúng. Nhưng khi dịch, câu “Hữu quốc giả quả năng hành nhân dĩ hợp thiên đạo”
dịch là “Có được nước bởi thành quả của lòng nhân” thì hình như chưa sát lắm về
ý. “Hữu quốc giả” tức “người có nước”, “kẻ làm vua”. Cả câu có thể dịch là “Kẻ
làm vua, nếu thực sự có thể thi hành chính sách nhân đạo để hợp với đạo trời,
thì...”.
- Hay phần Lời mở, tr.3, đầu trang, chữ “trùng tu” để
nguyên không dịch, với bạn đọc hiện đại, có điều không ổn. Ngày nay, thông
thường người ta hiểu đối tượng của việc “trùng tu” là đình miếu, đền chùa...
Còn với xuất bản phẩm thì dùng chữ “sửa chữa” (như “tái bản có sửa chữa”),
không ai nói “trùng tu một cuốn sách”, “trùng tu lần thứ...” đối với một cuốn
sách (id, tr.35). Cũng ở phần Lời mở, tr.37, chữ ‘vụ tại” và chữ “hứa” trong
câu “Trần Trí, Phương Chính chuyên trách tiến binh, vụ tại hòa hợp để thành
công, không hứa trì hoãn để lỡ việc” cũng không thể dùng nguyên phiên âm Hán
Việt mà không dịch, mà “vụ tại” phải được thay bằng “cốt ở”, và “hứa” phải được
thay bằng “cho phép”.
5. Chú thích: Rất tốt, rất tỉ mỉ.
Nhưng cũng có chỗ “quá tỉ mỉ” tới mức không cần thiết, theo tôi nên lược bớt. Chẳng
hạn trích đoạn 51, tr.57, chú thích số 2,
“Xuân thu: tên bộ sử Khổng Tử viết cho thời đại từ Chu Bình Vương thứ 49 [-723]
đến Chu Kính Vương [-481] gồm 242 năm, thời này được gọi là Xuân thu”. Lẽ ra,
chữ cần chú thích trong thượng văn là “Thời đại Xuân thu”. Theo các từ điển
Trung Quốc hiện nay, thời đại này kéo dài từ năm 722 TCN đến 481 TCN. Nay, khi
nói đến thời Xuân thu, người ta đóng khung trong khoảng thời gian từ 770 TCN
đến 476 TCN. Và cũng chỉ chú thích như thế là đủ. Còn chữ không trực tiếp liên
quan đến từ ngữ cần chú thích.
6. Lỗi chính tả:
Cần soát và đính chính
lại, khá nhiều chỗ trong cả phần Lời mở cũng như phần tuyển trích văn bản để
dịch, đặc biệt là các chữ Hán. Như tr.48, đóa cam chữ Hán còn thiếu chữ
“đóa”, tr.74, “An Nam đồ thuyết”, chữ “đồ” viết thành “quốc”; tr.111,
chú thích 1, chữ Hồ Đê, “Đê” (trên
đại, dưới hỗ) còn được thay bằng @v.v...
7. Kết luận:
Công
trình biên dịch và giới thiệu này theo tôi là rất thành công, có thể nghiệm thu
được trong cuộc họp hôm nay. Đề nghị nhóm biên soạn tranh thủ thời gian hoàn
chỉnh thêm tập bản thảo theo các ý kiến góp ý của Hội đồng và nộp lại cho NXB
Hà Nội để xuất bản đúng dịp kỷ niệm 1000 năm đại lễ.
Nhà xuất bản Hà Nội