TS Hoàng Anh Tuấn: “Sự chuyên sâu không loại trừ khả năng nhìn rộng”
Tại sao lại là các Công ty Đông Ấn?
Tôi xin trả lời dài dòng một
chút. Công việc nghiên cứu của tôi khởi đầu bằng đề tài nghiên cứu ở bậc đại
học và cao học về hoạt động thương mại biển của Vương quốc Chămpa thế kỷ VII-X
trong bối cảnh quan hệ thương mại và giao lưu văn hóa khu vực. Tiếp sau đó là
một cơ duyên: năm 1998, Chính phủ Hà Lan dự định tổ chức đại lễ kỷ niệm 400 năm
thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) vào năm 2002. Họ muốn hoạt động này thực
sự có chiều sâu, gắn liền với khoa học và đào tạo, nên đã lập Chương trình
TANAP và giao cho Đại hoc Leiden tổ chức đào tạo tiến sĩ cho khoảng 20 nhà nghiên
cứu trẻ của các nước phương Đông (nơi VOC từng có quan hệ buôn bán). Tôi may
mắn là một trong số những người đó, sang Leiden
từ năm 2002 và đến năm 2006 tôi hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh. Vì
vậy, có thể nói rằng tôi đã mở rộng hướng nghiên cứu hải thương của mình từ
người Chăm sang người Việt nói chung, trong mối quan hệ với nước ngoài.
Tại Đàng Ngoài, Hà Lan thành công hơn Anh
Các Công ty Đông Ấn (ngoài Công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập năm 1602,
tồn tại cho tới năm 1799 còn có Công ty Đông Ấn Anh - EIC - xuất hiện cùng
khoảng thời gian) có thể coi là những huyền thoại trong lịch sử châu Âu, nhưng
rõ ràng đây là đề tài rất mới đối với giới sử học Việt Nam.
Thành tựu nghiên cứu gắn liền với
các Công ty Đông Ấn ở các nước phương Tây rất nổi bật, nhưng đây quả là một
hướng đi tương đối mới mẻ tại Việt Nam. Nói tương đối mới mẻ là vì việc
đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này đã được tiến hành từ những năm 90 của thế
kỷ trước. Ngay sau Hội thảo quốc tế về Hội An, vào những năm 1990, GS. Phan Huy
Lê và GS. Nguyễn Quang Ngọc đã được Đại học Leiden
mời sang nghiên cứu để khảo sát kho tư liệu Hà Lan về Việt Nam. Trong dịp này, hai giáo sư đã
thu thập và mang về nước được một số phim chụp về tư liệu VOC, bản đồ cổ… Đặc
biệt, GS. Nguyễn Quang Ngọc đã sang tận Thư viện Quốc gia Anh để trao đổi với
cố TS. Anthony Farrington về khối tư liệu EIC về Việt Nam. Trên cơ sở những quan hệ hữu
hảo đó, vào năm 2002, hai Giáo sư đã giới thiệu để tôi sang Đại học Leiden học tập và nghiên
cứu. Đến thời điểm đó, bên cạnh một số bài viết, đã có ít nhất hai công trình
nghiên cứu quan trọng liên quan đến VOC-Đại Việt: luận án tiến sĩ Công ty Đông Ấn Hà Lan và Đàng Trong: Mối
quan hệ giữa Hà Lan và Annam trong thế kỷ XVII của Wilhelm Buch (1929) và
chuyên khảo Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Đông Dương cũng do Buch công bố trên tạp
chí của Trường Viễn đông Bác cổ (BEFEO, 1936/7).
Thế nhưng, nếu đọc cuốn sách Tư
liệu các Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII
do anh biên soạn vừa được ấn hành (NXB Hà Nội), thì Công ty Đông Ấn Hà Lan có
quan hệ chủ yếu với Đàng Ngoài chứ không phải Đàng Trong…
Đúng vậy, cũng không rõ tại sao
Buch lại chọn hướng nghiên cứu đó, vì xét về mặt thống kê, tài liệu của VOC
liên quan đến Đàng Trong ít hơn nhiều, lại không được liên tục về mặt thời gian.
Chúng ta cũng chỉ có thể phỏng đoán về lý do lựa chọn của Buch. Tuy nhiên, như
đã nói, trong chuyên luận trên BEFEO, Buch có đề cập đến cả Đàng Ngoài, dù chủ
yếu là điểm lại dưới dạng biên niên hoạt động của VOC ở Kẻ Chợ chứ chưa khảo tả
và phân tích chi tiết về mặt định lượng. Cuốn sách của Buch cũng từng được các
nhà nghiên cứu Việt Nam tham khảo, như trong công trình Về ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX
(1961) của Thành Thế Vỹ.
Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Đông Ấn Anh đều hoạt động ở Việt Nam
trong thế kỷ XVII nhưng người Hà Lan thành công hơn nhiều so với người Anh, tại
sao? (Chúng ta biết rằng người Anh lập Công ty Đông Ấn trước người Hà Lan).
Theo tôi, nguyên nhân cần được
nhìn rộng hơn mức độ các sự kiện đơn thuần diễn ra trong phạm vi Đại Việt. Khởi
đầu của người Hà Lan tại Việt Nam
không hề thuận lợi: ở Đàng Trong người Hà Lan thiệt hại cả trăm người và hàng
vạn ghin-đơ trong khi ở Đàng Ngoài
khó khăn và tổn thất cũng luôn luôn thử thách họ. Thế nhưng họ lại nhanh chóng
thiết lập được thương điếm, duy trì quan hệ với Đàng Ngoài suốt 64 năm và có
được những thành công không nhỏ, mặc dù Đàng Ngoài là một trong những xứ khó
buôn bán bậc nhất ở phương Đông, do đặc điểm của hệ thống quan liêu, cũng như
tổ chức xã hội có nhiều đặc thù phức tạp. Tất nhiên, nhu cầu của Phủ Chúa về
tiền bạc và vũ khí trong thời gian nội chiến đóng một vai trò quan trọng nhưng
trong nghiên cứu lịch sử thương mại, rất nhiều yếu tố cần phải tính đến. Người
Hà Lan biết tổ chức một mạng lưới buôn bán liên hoàn. Người Hà Lan lại rất chặt
chẽ, kỷ luật, kiên nhẫn và khôn ngoan, trong khi người Anh tổ chức công việc buôn
bán ở phương Đông tương đối lỏng lẻo. Hơn nữa, chiến lược thương mại của mỗi
bên cũng khác nhau; ở quãng thời gian đó, tiềm lực của Anh tại khu vực Đông Nam
Á nhỏ hơn so với Hà Lan.
Người Hà Lan thậm chí còn thành công đến mức Carel Hartsinck (giám đốc
thương điếm Đàng Ngoài từ 1637 đến 1641) còn được chúa Trịnh Tráng nhận làm con
nuôi, một câu chuyện hiếm thấy.
Đây tất nhiên là một câu chuyện
thú vị, cho thấy sự cởi mở nhất định của họ Trịnh (các chúa Nguyễn ở Đàng Trong
còn cởi mở hơn thế). Tuy nhiên, đây cũng có thể chỉ nên được coi là một cử chỉ
ngoại giao, bằng chứng là mối quan hệ giữa ông con nuôi và ông bố nuôi chẳng mấy
suôn sẻ. Điều đáng để suy nghĩ ở đây là: các nghiên cứu theo hướng này khiến
chúng ta cần nhìn lại định kiến về sự “co cụm”, “đóng cửa”, “yếm thế”… của Việt
Nam trong lịch sử thương mại và bang giao khu vực. Thêm nữa, vị trí và vai trò
của Việt Nam trong hệ thống thương mại khu vực và quốc tế hồi đó không đơn
thuần là một sự may mắn, mà có sự chủ động nhất định từ phía chính quyền. Cấu
trúc thương mại về cung-cầu ở khu vực cũng luôn luôn cần được tính tới: chẳng
hạn như Nhật Bản có nhu cầu lớn về lụa trong khi sản lượng tơ lụa Trung Quốc
lại sụt giảm do thay đổi triều chính Minh-Thanh nên Việt Nam có điều kiện trở thành nhà cung
cấp tơ lụa lớn. Việt Nam cần được đặt vào bức tranh chung: muốn nghiên cứu
thương mại của nước ta gắn liền với VOC thì nhất thiết phải đồng thời nghiên
cứu hoạt động của VOC tại đại bản doanh Batavia, Nhật Bản, Đài Loan, xa hơn là
biến động chính trị tại Trung Quốc, thay đổi thương phẩm tại Bengal (Ấn Độ),
thay đổi sở thích của người Anh ở London và người Hà Lan ở Amsterdam… và rộng
hơn là đặt Đại Việt trong cấu trúc thương mại toàn cầu ở thời kỳ này.
Nghiên cứu lịch sử thuộc địa không thể bỏ qua lĩnh vực thương mại
Rõ ràng các nguồn tư liệu mới đã đánh động nhận thức của chúng ta về
lịch sử thuộc địa: khi thành tố thương mại được thêm vào bên cạnh những thành
tố đã được nghiên cứu rất nhiều như chính trị, quân sự, tôn giáo, ngôn ngữ, mối
quan hệ thực dân-thuộc địa đã không còn thuần túy là những cuộc xâm chiếm, mà
phức tạp và tế nhị hơn thế. Rồi thương mại lại dẫn tới chính trị và quân sự,
như chúng ta đã thấy Phủ Chúa rất muốn xây dựng một liên minh quân sự với VOC…
Ở đây có lẽ nên nhắc tới những
quan điểm tương đối đa chiều trong giới nghiên cứu cả trong và ngoài nước.
Không ít người cho rằng khi tới phương Đông, người phương Tây đã sẵn có trong
đầu mưu đồ thực dân. Tuy nhiên, nếu nhìn vào lịch sử thương mại gắn liền với
các Công ty Đông Ấn, thì có thể chắc chắn rằng ít nhất cho tới nửa đầu thế kỷ
XVIII khó có thể nói đến mưu đồ thực dân như cách hiểu hiện đại sau này. Mối
quan hệ thương mại có thể đi trước mọi thứ khác. Giới nghiên cứu gần đây cũng
tranh luận nhiều về cách hiểu từ “soldat” (lính) trong cách dùng của Cố
Alexandre de Rhodes: các nhà truyền giáo tới Việt Nam tự coi mình là những “người
lính” theo nghĩa đen hay thực chất cần phải hiểu từ này theo nghĩa ẩn dụ? Tôi
thiên về cách hiểu thứ hai hơn. Điều nên tránh là để cho mối quan hệ thương
mại-thực dân bị chi phối bởi “tình cảm dân tộc”.
Nghiên cứu lịch sử theo hướng thương mại có bị “chán” không, khi mà ở
mảng này hình như vai trò của các cá nhân khá là mờ nhạt, ta hiếm khi thấy
những nhân vật nổi bật như ở lĩnh vực chính trị hoặc quân sự?
Cũng có những nhân vật hấp dẫn
đấy. Một ví dụ tiêu biểu là trường hợp nhân vật Hoàng Nhân Dũng (người Hà Lan
gọi là Ongiatule: Ông già Tư Lễ), một
hoạn quan hồi thế kỷ XVII, đã tìm cách “lobby” Phủ Chúa hòng thâu tóm, lũng
đoạn toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu của người Hà Lan ở Kẻ Chợ. Thậm chí ông
ta còn dựa vào thế lực của thế tử và phối hợp với thương nhân Nhật Bản Resimon để
thực hiện mưu đồ của mình.
“Hết tơ lụa thì chuyển sang gốm sứ, hết gốm sứ thì chuyển sang xạ
hương…”
Dù sao thì ngành nghiên cứu của anh cũng rất mới mẻ và hứa hẹn.
Tôi đã thực hiện thống kê và nhận
thấy rằng trong 50 năm (1954-2004), tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử rất mỏng ở lĩnh vực thương mại, bang giao ở giai đoạn người
châu Âu bắt đầu xuất hiện. Tôi gọi đây là một khoảng lặng, tạo nên một sự mất
cân đối khá nghiêm trọng nếu so với mảng nghiên cứu về ruộng đất, thể chế, quân
sự… Nguyên do chính là thiếu tài liệu nước ngoài, bởi các bộ thông sử ghi chép
rất ít về thương mại, nhất là ngoại thương, trong khi việc tiếp cận tư liệu
phương Tây lại hết sức khó khăn trong thời điểm đó. Nguồn tài liệu từ nước
ngoài, đặc biệt là tư liệu phương Tây, vì vậy trở nên đặc biệt quan trọng và
cần được khai thác triệt để hơn nữa.
Nhưng làm thế nào để hợp tác có hiệu quả với nước ngoài trong nghiên
cứu lịch sử?
Các đơn vị nghiên cứu nước ngoài
đã hỗ trợ rất lớn cho công việc đào tạo và tiếp cận tư liệu trong khoảng mười
năm qua. Hiện nay, Khoa chúng tôi vẫn còn ba cán bộ đang học tiến sĩ và thạc sĩ
tại Đại học Leiden
(Hà Lan) và hứa hẹn sẽ bổ trợ cho hướng nghiên cứu này. Tuy nhiên, phải nói một
cách khách quan rằng không thể chỉ dựa vào hỗ trợ của nước ngoài. Phía bạn có
thể hỗ trợ đào tạo và nghiên cứu ngắn hạn. Các nghiên cứu mang tính trường quy và
quy mô lớn dựa trên việc khai thác tư liệu phương Tây vẫn rất cần có sự đầu tư
kinh phí tương xứng từ trong nước. Có như vậy chúng ta mới có thể khai thác
được triệt để nguồn tư liệu quý đó để soi sáng nhiều khía cạnh của lịch sử dân
tộc thời kỳ này.
Nhìn vào con đường nghiên cứu khoa học của anh, có thể thấy rất rõ là
anh đi chuyên sâu hoàn toàn vào một chủ đề. Ngay cả khi dịch sách, anh cũng chọn
các tác phẩm của William Dampier (Một
chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế giới, 2007) và Samuel Baron
(Mô tả vương quốc Đàng Ngoài, 1683,
NXB Hà Nội, 2010) là những nhân vật có liên quan nhiều đến các Công ty Đông Ấn
Anh và Hà Lan.
Có lẽ cá nhân tôi phần nào chịu
ảnh hưởng của “trường phái Leiden” vốn đề cao việc khai thác các nguồn sử liệu gốc
để tập trung tìm hiểu sâu một lĩnh vực cụ thể, sau đó mới bắt đầu nhìn rộng ra
một chút để tìm hiểu các mối liên hệ đa chiều ở phạm vi khu vực hoặc rộng hơn
nữa là hệ thống toàn cầu.
Đã đi một chặng đường dài với các Công ty Đông Ấn, anh có nghĩ đến việc
quay trở lại với Chămpa thế kỷ VII-X, đề tài nghiên cứu ban đầu của anh không?
Chắc là không thể, cho dù tôi vẫn
luôn luôn quan tâm đến Chămpa nhưng ở giai đoạn muộn hơn (thế kỷ XVI-XVIII) vì
tài liệu của Anh và Hà Lan cũng có đề cập không ít tới Chămpa trong bối cảnh
của các mối quan hệ chính trị và thương mại đa chiều khu vực Đông Nam Á lục địa.
Con đường đi của tôi sẽ nhất quán như vậy: hết tơ lụa thì chuyển sang gốm sứ,
hết gốm sứ thì chuyển sang xạ hương hoặc quế… Tôi quan niệm rằng sự chuyên sâu
không loại trừ khả năng nhìn rộng bởi những nghiên cứu cụ thể luôn cần được đặt
trong quan điểm so sánh khu vực và thế giới, chừng nào chúng ta còn có thể sử
dụng các nguồn sử liệu gốc phong phú và cập nhật được các thành tựu nghiên cứu
của sử học khu vực và quốc tế.
(Bài đã đăng trên báo Sài Gòn
tiếp thị, số xuân 2011)