Triển khai kế hoạch tác chiến chiến
lược Đông-Xuân 1953-1954, ta chủ trương phối hợp với Quân giải phóng
Pa-thét Lào mở cuộc tiến công ở Trung-Hạ Lào nhằm thu hút quân cơ động
Pháp, phá thế tập trung lực lượng của Na-va ở Đồng bằng Bắc Bộ; tiêu
hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng và củng cố vùng giải
phóng của bạn, đồng thời phá âm mưu đánh vào hậu phương ta của địch, bảo
vệ vùng tự do Thanh-Nghệ-Tĩnh.
Đầu tháng 12-1953, phát hiện thấy chủ
lực ta tiến sang Trung Lào, quân Pháp vội vàng điều động 2 binh đoàn cơ
động số 2 và số 3, gồm 6 tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo binh từ
Bắc Bộ sang tăng cường, cùng với các tiểu đoàn đóng ở Trung Lào hòng
bịt các cửa ngõ vào Trung Lào của quân ta. Địch bố trí thành 3 cụm quân,
gồm: Cụm A ở khu vực Na Pê, Cam Cốt, Lạc Sao trên đường số 8; Cụm B ở
Ba Na Phào, Nhom Ma Rát trên đường 12; Cụm C ở Nậm The làm lực lượng dự
bị. Các đơn vị Âu-Phi được điều sang Trung Lào lần này là những đơn vị
từng trải trên chiến trường miền Trung, nên chúng rất thiện chiến,
thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân thăm dò, thọc sâu vào các vùng
căn cứ du kích Trung Lào và biên giới Việt Nam-Lào để phát hiện chủ lực
của ta.

Bộ đội Việt Nam và Pa-thét Lào sau
chiến thắng chiến dịch Trung-Hạ Lào tháng 5-1954. (Ảnh chụp lại tại Bảo
tàng Quân đội nhân dân Lào)
Chiến dịch Trung-Hạ Lào bắt đầu từ ngày
21-12-1953. Ta sử dụng các đơn vị thuộc Đại đoàn 304, Đại đoàn 325, cùng
các đơn vị tình nguyện của Liên khu 4, Liên khu 5 và một số đơn vị
Pa-thét Lào tiến công địch. Hướng tiến công chủ yếu do Trung đoàn 66
(Đại đoàn 304) và Trung đoàn 101 (Đại đoàn 325) đảm nhiệm đánh địch
phòng ngự trên đường 12 và phát triển tiến công về Nhom Ma Rát, giải
phóng phía đông tỉnh Khăm Muộn. Hướng tiến công thứ yếu của chiến dịch
đánh vào Na Pê, Lạc Sao, Cam Cốt, sau đó phát triển theo trục đường số 8
đánh xuống đường số 12. Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101), được tăng cường
thêm quân số và chỉ huy, thọc sâu chiến dịch xuống Hạ Lào tạo bàn đạp
cho lực lượng lớn của ta phát triển xuống phía Nam. Trung đoàn 18 (thiếu
Tiểu đoàn 274), giai đoạn đầu phối hợp với lực lượng vũ trang
Bình-Trị-Thiên cắt đường số 9 không cho địch cơ động lực lượng theo
đường bộ lên ứng cứu, sau đó theo đường 9 phát triển sang đánh địch ở
Trung-Hạ Lào. Trong quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch, ngoài
việc bảo đảm của trên, trực tiếp của các đơn vị, còn có Liên khu 4 tổ
chức dân công, bảo đảm hậu phương chiến dịch; phối hợp với các cơ sở
cách mạng Lào động viên nhân dân phục vụ chiến trường.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến kế hoạch tấn công cứ điểm Điện Biên Phủ tại chiến khu Việt Bắc. Ảnh tư liệu
|
Qua nhiều đợt tiến công, đến tháng 5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ
thắng lợi, cuộc tiến công của ta và bạn ở Trung Lào-Hạ Lào kết thúc.
Thắng lợi quan trọng của Chiến dịch Trung-Hạ Lào không chỉ tiêu diệt bộ
phận lớn sinh lực địch và giải phóng đất đai, mà còn thực hiện tốt yêu
cầu chiến lược là buộc Na-va phải tiếp tục phân tán khối cơ động chủ lực
trên chiến trường chính Bắc Bộ, nhất là hướng chính Điện Biên Phủ. Ở
Trung Lào, ta đã mở rộng vùng giải phóng của bạn từ nam, bắc đường 9
xuống đến đông Xa-vẳn-na-khệt, vô hiệu hóa đường số 12, cắt đứt đường số
9, buộc địch phải ở trong tình thế “Đông Dương bị cắt làm đôi”. Ở Hạ
Lào và đông bắc Cam-pu-chia, ta đã giải phóng một vùng rộng lớn, nối
liền các căn cứ du kích đông, đông bắc Cam-pu-chia với vùng giải phóng
Hạ Lào, góp phần thực hiện chủ trương đánh thông hành lang chiến lược
nam bắc Đông Dương, sau đó tiếp tục kìm chân một bộ phận lực lượng cơ
động của địch sau Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Trung-Hạ Lào đã có bước phát
triển mạnh mẽ về nghệ thuật quân sự. Trước hết, ta đã chọn đúng nơi địch
yếu và sơ hở để mở chiến dịch tiến công, quan trọng hơn là ta đã liên
tục thọc sâu xuống phía nam, đánh vào “hậu phương an toàn” của địch,
từng bước làm đảo lộn thế phòng thủ của chúng ở khu vực này. Mở Chiến
dịch Trung-Hạ Lào và không ngừng phát triển xuống phía nam, ta đã ngày
càng khoét sâu điểm yếu cơ bản của địch là mâu thuẫn giữa chiến trường
rộng với binh lực hạn chế; giữa tập trung binh lực trên chiến trường
chính với đối phó với nhiều hướng tiến công của ta. Mũi thọc sâu chiến
dịch ở Hạ Lào-đông bắc Cam-pu-chia của ta là bất ngờ lớn đối với địch.
Chúng cho rằng ta không có đủ sức vượt qua “tuyến cấm” (đường số 12) và
lá chắn Sê Nô để phát triển tiến công. Từ bất ngờ ban đầu ở Trung Lào,
tiếp đến ở Hạ Lào và cuối cùng là đông bắc Cam-pu-chia, địch phải liên
tiếp điều lực lượng từ các chiến trường nhất là từ miền Bắc đến để đối
phó, nhưng cũng không hạn chế được nhịp độ phát triển nhanh và ngày một
sâu xuống phía nam của ta.
Về cách đánh chiến dịch, ngay từ đầu
cũng như trong quá trình phát triển chiến dịch, ta đã liên tiếp triển
khai thế trận chia cắt địch. Lực lượng ta đã chia cắt địch trên các
đường chiến lược số 12, số 9 và số 13 và trên từng khu vực, từng địa
bàn. Với lực lượng ít hơn địch, song ta đã từng bước chuyển hướng tiến
công, đánh vào những vùng quan trọng về chiến lược, nhưng mỏng yếu của
địch, nhằm chia cắt địch, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của chúng, mở
rộng vùng giải phóng và thực hiện yêu cầu chiến lược thu hút, phân tán
chủ lực địch. Trong thực hành chiến dịch, ta đã rất linh hoạt trong đánh
điểm, diệt viện và truy kích địch. Ta đã chọn các mục tiêu vừa sức
nhưng lại có vị thế quan trọng trong hệ thống phòng thủ của địch, tạo
nên sự chấn động lớn, buộc chúng phải ứng cứu giải tỏa để ta đánh địch
ngoài công sự hoặc tạo thuận lợi uy hiếp tiến công các mục tiêu chính.
Khi địch rút chạy, mặc dù địa hình không quen thuộc, nhưng bộ đội ta đã
biết dựa vào bạn, khẩn trương nhanh chóng, quyết tâm truy kích địch đến
cùng.
Một nét nổi bật trong Chiến dịch
Trung-Hạ Lào là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cánh, các hướng; giữa bộ
đội Việt Nam với nhân dân và lực lượng vũ trang nước bạn. Đó là sự hiệp
đồng chiến đấu với ý thức chủ động rất cao giữa các lực lượng thuộc các
đơn vị khác nhau trên một địa bàn chiến dịch rộng lớn, kéo dài từ Trung
Lào đến đông bắc Cam-pu-chia. Sự phối hợp hành động của nhiều lực lượng
trên một phạm vi rộng trong Chiến dịch Trung-Hạ Lào, chứng tỏ trình độ
tổ chức chỉ huy, hiệp đồng cấp chiến dịch của ta có bước phát triển quan
trọng.