Tâm trạng ấy phần nào được Nhà văn, Nhà báo Đắc Trung thể hiện qua tùy bút này…
Tạo
hoá đã hào phóng ban cho làng tôi đặc ân lớn: Vừa có núi, vừa có sông.
Đó là núi Tiên Sa và sông Thiên Phái. Ngọn núi, dòng sông ấy gắn với một
huyền thoại trữ tình tuyệt vời: “Sông Thiên Phái – núi Tiên Sa”.
Chuyện rằng xưa, nơi đây là rừng rậm, rất nhiều muông thú. Một con mãng
xà cuộn mình tu luyện 400 năm hoá rồng bay lên trời để lại chỗ nằm vạt
thảo nguyên xanh biếc. Một chàng trai tên gọi Lưu Hương gương mặt thanh
tú, giọng hát du dương cùng đàn dê lông trắng như tuyết. Tiếng hát của
chàng lay động lòng người làm chim muông sững sờ, hươu nai ngơ ngác,
vượt qua chín tầng mây lọt vào tận cung động của các thiên thần.
Bạch-y
Tiên-nữ, một thiên thần áo trắng say mê đến ngơ ngẩn. Nàng trốn xuống
hạ giới bí mật kết duyên với chàng trai tài hoa ấy. Ngọc Hoàng giận dữ
sai Thiên Lôi xuống hạ giới bắt nàng về trị tội. Bạch-y Tiên-nữ khóc lóc
thảm thiết bên người yêu rồi nuốt lá độc tự tử. Lưu Hương đặt xác vợ
lên thảm cỏ, đau đớn vật vã. Trời tối sầm. Mây đen vần vũ. Cuồng phong.
Sấm rền. Chớp loé. Mưa như thác. Một tiếng sét khủng khiếp. Đất trời
rung chuyển. Xác Bạch-y Tiên-nữ bỗng biến thành trái núi giống hệt dáng
nàng đang nằm.
Đó là núi Tiên Sa (Nàng tiên sa).
Ba năm
sau. Ngọc Hoàng thấy lòng trĩu buồn, ngậm ngùi nhớ thương con gái, bèn
phái rồng Long Tự xuống hạ giới uốn mình bên núi Tiên Sa để hầu hạ
Bạch-y Tiên-nữ. Long Tự chính là con đại mãng xà tu luyện đắc đạo hoá
rồng thuở trước.
Đó là sông Thiên Phái (Trời phái).
Vào
những đêm khuya lẫn trong gió tiếng hát của Lưu Hương vẫn cất lên tha
thiết gọi người yêu, nghe thương tâm đến xé lòng. Cảm thông mối tình bi
thảm ấy nên các bậc cha mẹ ở làng tôi ít ai nỡ ép duyên con cháu.

Ông
Đặng Đình Bạn theo dân phu mộ sang Tân Thế Giới, phiêu bạt khắp nơi,
rồi làm thuỷ thủ cho tàu buôn Bồ Đào Nha. Một lần tàu cập cảng
Đi-ê-grô-sua. Chiều buồn, ông lang thang nhìn biển xanh lòng da diết nhớ
quê, thì thấy một người Việt Nam ngồi giữa, xung quanh là những thuỷ
thủ da màu. Anh ta đang kể cho các bạn nghe về truyền thuyết: “Sông
Thiên Phái – núi Tiên Sa”. Chẳng cần biết họ có hiểu nhưng giọng anh rất
say sưa.
Cố gắng lắm ông mới giữ được bình tĩnh rồi nhào sang,
ôm chầm lấy, giọng xúc động: “Anh vừa kể câu chuyện về làng tôi”. Giữa
hòn đảo nhỏ tận Châu Phi, được gặp một người Việt Nam đã cảm động lắm
rồi. Câu chuyện này lại… “Về làng anh?” – Người bạn ngơ ngác hỏi. “Vâng.
Làng tôi. Làng Mai Độ, tổng Lạc Chính, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Còn
quê anh?”. Họ ôm chầm lấy nhau nghẹn ngào và cứ ôm nhau như thế rất lâu
trước sự ngạc nhiên của các bạn ngoại quốc.
Thì ra họ không chỉ
cùng quê mà còn là anh em họ với nhau. Người bạn ấy là ông Đặng Đình
Sánh. Câu chuyện huyền thoại về sông Thiên Phái – núi Tiên Sa đã làm
sống dậy trong kí ức họ những kỉ niệm và tình yêu quê hương da diết. Họ
quyết định sẽ thu xếp tìm đường hồi hương. Nhưng tiếc rằng sau lần gặp
ấy ông Sánh không được tin gì của ông Bạn nữa. Chiến tranh thế giới lan
rộng, ông Bạn là thuỷ thủ phải qua lại vùng biển thường xuyên có chiến
sự. Thế là sau đó hồi hương chỉ còn mình ông Sánh.
Chao ôi, thì
ra sức sống của một làng quê, một dân tộc đã ngấm sâu vào trái tim, khối
óc và kí ức mỗi người tạo thành hồn quê có khi chỉ từ một câu chuyện
cổ, một áng ca dao, một làn điệu chầu văn, trống quân, cò lả… Sức sống
ấy mãnh liệt bứt người ta khỏi cuộc sống vật chất đủ đầy để trở về Tổ
quốc, về với làng quê nơi Đất Mẹ.
Người làng tôi ảnh hưởng thuyết
đa thần của Lão giáo, cho rằng con người muốn được các đấng thiêng
liêng phù hộ, che chở để tránh mọi rủi ro, hoạn nạn phải thờ Trời, thờ
Đất, thờ Nước, thờ Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển, thờ Thần Linh, Thổ
Công, đặc biệt thờ Thành hoàng là vị thần coi quản, bảo vệ không chỉ
người sống mà cả người đã chết trong làng. Đền Quan Sơn thờ Thần Núi
Tiên Sa. Đền Cây Sanh thờ Thần Sông Thiên Phái. Thần Núi, Thần Sông đều
rất thiêng.
Đền Quan Sơn mái cong, rêu phủ, ẩn mình dưới tán đa
đại thụ. Cây cối rậm rạp. Dây leo chằng chịt. Yên tĩnh, u tịch đến rợn
người. Bát hương bằng đá trên bệ thờ luôn có đôi bạch xà nằm cuộn mình
quấn chặt, khi thấy động mới lặng lẽ trườn đi. Có người trèo cành đa bắt
tổ chim bị bạch xà tấn công ngã gãy chân. Có người phá đá đầu núi mang
về làm nhà ốm nặng rồi bị điên. Thành tâm sắm lễ lên đền tạ tội. Tháng
sau hết điên, khỏi bệnh.
Đền thờ Thần Sông trên gò đất cao, sát
đê, bên mép nước, không mái, bệ xây cao ngang ngực, giữa đặt một bát
hương to bằng sứ, men nâu, có hình rồng quấn quanh. Sau bệ thờ là cây
sanh cổ thụ, thân tròn, hai vòng tay nối nhau ôm mới hết, tán xoè, cành
lá um tùm đan cài như chiếc ô lớn, trên nhiều tổ quạ.
Sát đền
Cây Sanh là cửa Ngòi Thần nối núi Tiên Sa với sông Thiên Phái. Mỗi khi
trở trời nước đỏ hồng như máu. Người già bảo đó là huyết lệ của Lưu
Hương khóc thương Bạch-y Tiên-nữ. Đền thiêng. Người qua phải ngả mũ nón.
Thuyền qua phải hạ buồm. Đã có kẻ không tin, không ngả nón, hạ buồm,
còn dám buông lời báng bổ. Mấy ngày sau bị lốc xoáy, lật thuyền, người
chết. Không chỉ dân làng tôi mà cả vạn chài trên sông sùng tín.
Gần
đền Cây Sanh là Đình Thượng, cũng bên bờ sông Thiên Phái, tọa lạc trên
khuôn viên rộng. Phía trước có hồ sen hình bán nguyệt. Hè về đỏ rực màu
hoa và ngào ngạt hương thơm. Xung quanh um tùm vườn vải, vườn nhãn toàn
những cây cổ thụ. Mùa trái chín chim về làm tổ. Tiếng tu hú gọi bầy,
tiếng cu gáy, tiếng chích choè hót… Không gian luôn đầy ắp âm thanh.
Đình
làng là trung tâm hội tụ giao lưu văn hoá tín ngưỡng. Lớn nhất là lễ tế
Thành hoàng đầu Xuân mới. Dân làng luôn sống trong niềm vui háo hức.
Người lớn, trẻ con xúng xính quần áo mới, nét mặt tươi vui chờ đợi. Ngày
hội đến. Cả làng kéo ra đình. Kẻ ngồi, người đứng, vòng trong vòng
ngoài chật ních. Ba hồi chín tiếng trống dõng dạc. Ai cũng biết rằng tế
Thần là thể hiện lòng biết ơn và cầu mong Thần che chở phù hộ cho mọi
người luôn khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, cây cối xanh tốt, mùa màng bội
thu, gia cầm gia súc đầy đàn, làm ăn thuận lợi nên hết sức thành tâm.
Giờ
hành lễ thật thiêng liêng. Chủ lễ là người có đức độ được dân làng tín
nhiệm. Áo thụng gấm màu đỏ, ngực thêu rồng vàng, đầu đội mũ cánh chuồn,
chân đi hài mũi cong, bước khoan thai đĩnh đạc, hai tay cung kính dâng
hương. Đoàn người theo sau cũng uy nghi lễ phục. Đàn ông áo thụng gấm
màu xanh, khăn xếp. Đàn bà áo tứ thân lụa mỡ gà, vấn tóc, cài trâm lấp
lánh.
Trai gái đồng phục vàng, dải lụa tím thắt ngang bụng, chắp
tay nhịp nhàng bước theo nhạc lễ… Linh thiêng nhất là lúc chủ lễ đọc
văn tế. Tế Trời, Đất. Tế Thần Núi, Thần Sông. Tế Thành Hoàng. Tôn
nghiêm, xúc động. Sau đó là lễ rước kiệu. Hơn hai chục trai tráng được
tuyển chọn kĩ. Cao bằng nhau, khoẻ như nhau, đồng phục đỏ, thắt đai vàng
khiêng kiệu bát cống. Trên kiệu có ngai.
Giữa ngai là bát hương
nghi ngút khói. Kiệu được rước từ Đình Thượng lên đền Quan Sơn, xuống
Đền Hạ, rồi trở về Đình Thượng, kiệu vừa đi, vừa quay trong rừng cờ
phướn, trong tiếng trống, tiếng nhạc, tiếng reo hò, vỗ tay của dân làng
hối hả theo sau. Các nghi thức tế lễ được kết thúc vào buổi trưa ngày
thứ nhất. Từ buổi chiều, tối và ngày hôm sau là hội với rất nhiều trò
vui múa sư tử, đấu võ, đấu vật, kéo co, cờ tướng, cờ người, chọi gà, đu
bay, leo cầu phao, thi bơi, thi lặn, đua thuyền, bịt mắt bắt vịt…
Trong
khi các trò vui sôi nổi diễn ra thì phía sân nhà ngang sau đình những
người lo việc hậu cần rất tất bật. Tiếng dao thớt đốp chát, bát đĩa lách
cách, mâm nồi loảng xoảng, gọi nhau, cười nói. Cỗ bày la liệt. Mùi thức
ăn thơm ngào ngạt.
Bọn trẻ con chúng tôi chán trò đánh khăng,
đánh đáo, đánh cù, tràn sang trêu chọc phá rối đám con gái ngồi chơi
chuyền, chơi chắt, chơi ô ăn quan rồi cụm nhau hau háu ngồi xem mấy bác
chặt thịt gà, thái thịt lợn, cắt xôi nén chia phần, bày từng suất trên
những tàu lá chuối đã hơ qua lửa cho héo trải sẵn trên cót, hoặc nong
nia, để rồi phân phát cho từng gia đình. Rất quý bởi đó là lộc Thánh.
Được hưởng lộc Thánh thì mọi việc sẽ may mắn.
(Theo danviet.vn)