Uống nước nhớ nguồn, biết ơn tiền
nhân tiên tổ, ngày giỗ Tổ Hùng Vương đã được công nhận là quốc lễ. Tục
truyền, sau khi Lạc Long Quân (giống Rồng) và Âu Cơ (giống Tiên) chia
đôi đàn con, năm mươi người lên rừng, năm mươi người xuống biển, thì Lạc
Long Quân phong cho con trưởng làm Hùng Vương, lên ngôi Vua, đặt quốc
hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ), đồng thời
chia nước ra làm 15 bộ. Để tổ chức bộ máy quản lý đất nước, Vua Hùng đặt
tướng văn gọi là "Lạc hầu”, tướng võ gọi là "Lạc tướng”, con trai của
vua thì gọi là "Quan lang”, con gái vua gọi là "Mị nương”, các quan nhỏ
gọi là "Bồ chính”.
Chiến tranh loạn lạc liên miên, lại
hạn chế bởi văn tự nên sự xác định các đời vua Hùng rất khó khăn nhưng
truyền thuyết Hùng Vương đã được ghi lại từ cuối thế kỷ thứ 14. Sử quan
Ngô Sĩ Liên (1442) biên soạn Ðại Việt Sử ký toàn thư, chính thức vinh
danh các đời vua Hùng Vương trong Quốc sử, ghi nhận các đời Vua Hùng
Vương có công dựng nước. Dù vẫn có ý kiến về điểm này điểm nọ nhưng
không ai dám phủ nhận 18 đời vua Hùng và công lao dựng nước của các bậc
tiên hiền. Vì thế, đền thờ Hùng Vương ở Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) đã được
xây dựng từ 250 năm trước công nguyên, thời Thục An Dương Vương để tưởng
nhớ công đức của các thế hệ dựng xây nhà nước Văn Lang. Theo thời gian,
Đền tu sửa, chỉnh trang nhiều lần, mở rộng, phong quang và đẹp đẽ.
Tư tưởng mở mang bờ cõi, khai sơn phá
thạch từ thời các Vua Hùng được các thế hệ con cháu đời đời gìn giữ.
Xét theo truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ chia đôi đàn con, dân tộc
ta đã có cách nhìn xa trông rộng, hướng về biển. Ngay từ những ngày đầu
sơ khai lập nước, tổ tiên ta đã hướng ra biển. Nhiều ngàn năm trôi qua,
Biển Đông đã trở thành không gian sinh tồn của người Việt. Hôm nay,
ngóng trông về Hoàng Sa, Trường Sa vời vợi con nước Biển Đông, càng nhận
thấy tầm vóc vĩ đại của tư tưởng hướng ra biển từ thời Lạc Long Quân-
Âu Cơ. Kể từ đó, hàng ngàn đời con cháu người Việt đã vượt sóng gió ra
khơi, khai thác tài nguyên biển về làm giàu cho đất nước. Họ cũng chính
là những người cho dẫu thân xác đã tan trong nước Biển Đông thì cũng đã
làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc. Hôm nay, những chiếc thuyền
nan mỏng manh của tiên tổ đã được con cháu thay thế bằng những chiến hạm
tối tân, đủ sức bảo vệ vùng biển của tổ tiên để lại.
Từ trong truyền thống, nếu nhìn rộng
ra sẽ thấy nền công nghiệp vĩ đại của đất nước đều bắt nguồn từ sự đoàn
kết toàn dân tộc. Mà muốn có được sức mạnh của sự đoàn kết vĩ đại đó thì
tinh thần yêu thương, đùm bọc của những người cùng sinh ra trong một
bọc trứng có ý nghĩa quyết định. Lịch sử đất nước không khỏi có những
khúc quanh, những mâu thuẫn, kể cả xung đột - nhưng cuối cùng, sự hòa
hợp dân tộc đã vượt lên tất cả. Đều là người Việt Nam, đều có chung một
tiên tổ và cùng hướng về các Vua Hùng- lịch sử đã cho thấy khi mà tinh
thần hòa hợp dân tộc được chú trọng thì sự đoàn kết của dân tộc sẽ rất
mạnh mẽ, tạo nên sức mạnh vô địch mà không một kẻ thù nào dù bạo tàn đến
đâu có thể khuất phục.
Hiện có gần 5 triệu người Việt Nam
sống ở nước ngoài. Họ xa nước vì nhiều lý do khác nhau, kể cả những
người ra đi trong sự thù hận. Nhưng, thời gian là phương thuốc diệu kỳ
xoa dịu mọi nỗi đau. Bà con xa nước nghĩ về tổ tiên, nghĩ về cội nguồn
một mặt hòa nhập vào nơi mình đang sống, mặt khác vẫn dốc lòng hướng về
Tổ quốc. Trong những lần đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia với Hoàng
Sa, Trường Sa, tình yêu nước, trách nhiệm và nghĩa vụ của bà con đối với
đất nước lại càng rõ ràng. Những lần trong nước bị thiên tai, bà con
lại dành dụm gửi gắm về quê nhà với mong muốn nhanh chóng khắc phục hậu
quả, chia sẻ sự mất mát với đồng bào của mình. Thời gian qua, nhiều
doanh nhân, trí thức Việt kiều đã trở lại quê hương, bỏ công của, đem
trí tuệ của mình ra cùng dựng xây đất nước. Đó là điều vô cùng quý giá,
không thể đo đếm được. Nghĩ về các Vua Hùng khai thiên lập địa, nghĩ về
nghĩa đồng bào, về sự cường thịnh của đất nước, gần trăm triệu người
Việt trong nước và nước ngoài thân ái đứng bên nhau. Có thể nói, chính
từ sự hòa hợp, sự Đại đoàn kết toàn dân ấy mà thế nước chưa bao giờ mạnh
như ngày nay.
Hôm nay, tất cả con dân nước Việt lại
hướng về Đền Hùng. Ai ai cũng cùng chung mong muốn được dâng một nén
hương thơm lên tiên tổ. Từ trong sự mông lung, huyền ảo của quá khứ, bức
màn huyền thoại được vén lên, lịch sử dân tộc dần rõ nét. Đó là lịch sử
dựng nước và giữ nước, đồng lòng dựng xây đất nước. Nghĩ về tổ tiên,
nghĩ về bọc trăm trứng, chúng ta sống nhân ái hơn trên tinh thần hòa hợp
của những con người cùng chung một cội nguồn.
Thành kính dâng một nén tâm nhang lên
tiên tổ cũng là để nghĩ về sự hòa hợp dân tộc, tinh thần Đại đoàn kết
toàn dân tộc. Hôm nay, tới mảnh đất phát tích của các Vua Hùng, lại như
văng vẳng đâu đây tiếng thơ: