Nếu như anh em nhà Grimm, vốn là những học giả, chuyên thực hiện các chuyến đi điền dã để thu thập các câu chuyện cổ tích dân gian đáng tin cậy thì Andersen là một tá điền sống trong xã hội nhiều mê tín. Thị trấn nơi ông ở có 8.000 cư dân như một thành phố thời Trung cổ. Ở đó, các câu chuyện được kể với mục đích giải trí và giáo dục đạo đức chứ không hẳn chỉ vì muốn lưu truyền các giá trị văn hóa như truyện cổ Grimm. Các sử gia ước tính chỉ có 7 trong số 200 câu chuyện của Andersen là vay mượn từ các nguồn dân gian.
Cuộc đời của Andersen hệt như câu chuyện cổ tích ông viết
Hans Christian Andersen (1805 – 1875) là một cậu bé thích chơi búp bê, luôn cô độc, thu mình, ít hòa đồng, hiếu động như bạn bè cùng trang lứa. Cha của ông dù nghèo nhưng rất yêu văn học có một tủ sách và khi ông qua đời năm Andersen 11 tuổi, cậu bé thỏa thuê đọc những cuốn sách quý giá này.
Trong nhật ký của mình, Andersen kể rằng đọc sách “là trò tiêu khiển duy nhất và được yêu thích nhất”. Ngoài việc say mê đọc sách, Andersen còn có một tai nghe tuyệt vời. Sự náu mình cho phép cậu bé tập trung hơn vào câu chuyện người khác nói. Điều này tác động rất lớn đến những chi tiết tinh tế và trí tưởng tượng phong phú trong chuyện cổ tích của ông.
Trong những ngày đầu bước chân vào xã hội trí thức, Andersen vẫn phải chịu đựng những sự kỳ thị đẳng cấp do nguồn gốc thân thế của bản thân. Điều quan trọng là ông có một cái tôi rất lớn và nhờ đó, tôi rèn một khả năng chịu đựng và can đảm đối mặt với những chối từ phũ phàng.
Năm 14 tuổi, mồ côi cha, mẹ tái giá, Andersen một thân một mình lên thủ đô Copenhagen lập nghiệp. Đó là những ngày tháng tạo cảm hứng để ông viết nên câu chuyện cổ tích Cô bé bán diêm. Nhận được một khoản trợ cấp 5 năm của Hoàng gia, Andersen đứng trước hai lựa chọn: học hành cơ bản để trở thành một người viết văn hoặc về nhà và học nghề.
Chọn sự nghiệp học hành, Andersen đã trở nên nổi tiếng nhưng mặc cảm thân phận vẫn còn. Ông vẫn dễ tổn thương và mang cảm giác bất bình đẳng dù đã trở thành tác giả được trọng vọng nhất Đan Mạch. Trong nhật ký của mình, ông viết: “Tôi vẫn cảm giác mình là một gã nông dân trẻ khoác lên tấm áo choàng của Hoàng gia”.
Trong thế giới chuyện cổ tích Andersen có thể bắt gặp hình ảnh cuộc đời tác giả
Trong câu chuyện cổ tích The Ugly Duckling (Chú vịt con xấu xí) ông cũng từng viết: “sinh ra giữa một đàn vịt không quan trọng, nếu chỉ bạn là trứng của một con thiên nga”. Ôm một mối tình đồng giới vô vọng, Andersen sống đời cô quạnh, không có hạnh phúc riêng. Người ta đồn rằng Nàng tiên cá là câu chuyện tiến thoái lưỡng nan Andersen viết về chính thân phận của mình.
Và có lẽ để thoát khỏi cảm giác cô độc, Andersen đã viết nên những câu chuyện của trẻ em và vì trẻ em, rời xa những quy tắc đạo đức chuẩn mực, cứng nhắc của xã hội thời đó. Ông sáng tạo ra phong cách kể chuyện mơ mộng, nồng nhiệt nhưng không kém phần logic. Độc giả tìm thấy niềm vui khi đọc những câu chuyện của Andersen, bằng sự nhạy cảm của trẻ em chứ không phải là sự gò ép khô cứng.
Ngoài truyện cổ tích, Andersen còn là tác giả của những tiểu thuyết như Người ứng tác, O.T., Chỉ có người kéo vĩ cầm, Tồn tại hay không tồn tại và đương thời, ông được nhiều người coi là một trong những tiểu thuyết gia vĩ đại, ngang tầm với Walter Scott và Victor Hugo. Andersen cũng chính là người đã dự báo trước chủ nghĩa siêu thực của thế kỷ XX thông qua việc khai thác những chủ đề đơn giản như một hạt đậu, một người lính đồ chơi, những điểm mù tới tham vọng và lòng can đảm. Các nhân vật của chuyện cổ tích vừa đầy đam mê lại yếu đuối một cách rất con người.
Tinh tế và ý nghĩa, những câu chuyện cổ tích của nhà văn người Đan Mạch vẫn còn được ái mộ tới ngày nay, bất chấp quy luật khắc nghiệt của thời gian. Và Andersen, vẫn được tụng ca bằng những danh xưng trân trọng nhất: “ông vua kể chuyện cổ tích”.
Thùy Chi (tổng hợp)
(Theo giadinhonline.vn)