Đi tìm mục tiêu kinh tế cho Việt Nam
Trước những biến động của nền kinh tế Việt Nam trong hai năm qua,
các nhà hoạch định chính sách cũng như giới chuyên môn trong và ngoài
nước đã có những thảo luận, tranh cãi, và khuyến cáo về các vấn đề liên
quan đến chiến lược phát triển đất nước.
Đây là một diễn biến tốt, có khả năng tạo ra một xúc tác cho những
thay đổi chính sách theo hướng tích cực. Tuy nhiên, để có những chính
sách kinh tế thật sự ích nước lợi dân thì điều tiên quyết cần phải nắm
vững là mục tiêu tối thượng của những chính sách ấy là gì để từ đó đưa
ra những giải pháp phù hợp và chấn chỉnh, loại bỏ các bất cập.
Việt Nam đang ở đâu?
Với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hơn 7% mỗi năm trong hơn một
thập kỷ qua, rõ ràng Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công trong
việc tăng trưởng kinh tế. Nổi bật trong quá trình này là sự phát triển
của kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, và
tăng cường tổng đầu tư. Có thể nói rằng việc mở rộng sân chơi kinh tế
cho nhiều thành phần là yếu tố chính cho kết quả tăng trưởng này.
Tính từ thời kỳ bắt đầu đổi mới, vì xuất phát điểm của nền kinh tế
là tương đối quá thấp, cho nên tăng trưởng kinh tế đã giúp làm giảm
mạnh tỉ lệ đói nghèo trong xã hội trong suốt một thời gian dài. Ở khía
cạnh này, tăng trưởng kinh tế đã đóng góp tích cực cho việc thúc đẩy
phát triển kinh tế ở mức ban đầu.
 |
Việt Nam đang ở đâu. Ảnh: VNN |
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế không phải bao
giờ cũng tỉ lệ thuận vì muốn có phát triển kinh tế thì ngoài việc tăng
thu nhập bình quân đầu người (do tăng trưởng kinh tế đem lại) còn phải
có nhiều yếu tố khác như phát triển bền vững, công bằng thu nhập, ổn
định cộng đồng... Do đó, trước xu hướng gia tăng những vấn đề bất cập
về môi trường, tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo, lãng phí tài nguyên
kinh tế, bất ổn vĩ mô... tại Việt Nam hiện nay thì việc tiếp tục thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá sẽ làm cho nguy cơ đẩy lui tiến
trình phát triển kinh tế ngày càng cao.
Như một ví dụ, việc ưu tiên trút vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà
nước cho các hoạt động đầu tư ồ ạt và kém hiệu quả không những đã góp
phần gây ra lạm phát cao (làm khó khăn cho không ít người dân) mà còn
giảm khả năng của chính phủ trong việc chi tiêu cho các công trình đầu
tư khác có khả năng đem lại phúc lợi cho nhiều người dân, chẳng hạn như
về giáo dục và phát triển nông thôn.
Thêm nữa, sự hoạt động kém hiệu năng của một số thị trường (phần lớn
là liên quan đến vấn đề bất cân xứng thông tin) đã tạo ra những kẻ được
người mất một cách quá bất công. Ví dụ dễ thấy nhất có lẽ là những vấn
đề liên quan đến thị trường đất đai. Vì không có đủ thông tin nên đã có
biết bao nông dân đã chấp nhận nhượng đất cho những dự án đầu tư, như
xây sân golf, với giá rẻ mạt để rồi thấy đất đã sang tay "hóa vàng"
trong khi mình thì rơi vào bấp bênh do không còn đất canh tác.
 |
Việt Nam nên thiết lập một ủy ban gồm những
chuyên gia độc lập để nghiên cứu và đưa ra các
bản báo cáo chi tiết hằng năm về tác động của
thương mại nhằm tạo ra một kênh thông tin mới
cho xã hội. |
Chỉ với hai trường hợp trên cũng có thể thấy rằng, một khi mà
mục tiêu phát triển kinh tế không được làm nền tảng cho chính sách thì
chuyện một số thành phần lợi dụng cái mác tăng trưởng kinh tế và thúc
đẩy đầu tư để thao túng thị trường nhằm trục lợi một cách bất công là
khả năng không thể loại ra.
Hơn bao giờ hết, Việt Nam đang ở thời điểm cần cân nhắc lại chiến
lược phát triển đất nước. Phát triển kinh tế cần phải làm mục tiêu nền
tảng cho chính sách thay vì những chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đơn
thuần.
Thử tìm giải pháp
Như một nỗ lực tìm kiếm các giải pháp cho những bất cập trong quá
trình phát triển kinh tế, các chuyên gia bắt đầu bàn đến vấn đề đi tìm
mô hình kinh tế thích hợp. Tuy nhiên, mô hình nào cũng có giới hạn của
nó vì mô hình thì tĩnh mà xã hội thì động. Nguy cơ của việc chạy theo
mô hình là khả năng đuổi theo phương tiện mà quên mất mục tiêu phát
triển kinh tế.
Sự kéo dài của mô hình kinh tế tập trung với nhiều bất cập trước đây
có thể được coi như một trường hợp điển hình. Ở một số nước khác, từ
châu Mỹ Latinh cho đến Phi châu, việc áp dụng một cách máy móc mô hình
Đồng thuận Washington (với những tiêu chí như cắt giảm ngân sách, tự do
hóa thương mại, tư hữu hóa...) cũng đã gây ra những bất ổn trầm trọng
không kém. Do đó, tốt nhất là cứ dựa trên những diễn biến xã hội và thể
trạng kinh tế hiện nay của Việt Nam mà đưa ra những giải pháp phù hợp
thay vì áp dụng rập khuôn bất cứ một mô hình nào.
Ở phương diện căn bản nhất, Việt Nam hiện tại cần có hai yếu tố
chính để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Yếu tố thứ nhất là liên
quan đến vấn đề thông tin. Trước sự hoạt động manh nha, tranh sáng
tranh tối của nhiều thị trường, việc bảo đảm thông tin rộng rãi cho các
thành phần tham gia vào thị trường là điều tiên quyết cần phải có cho
một sân chơi bình đẳng và có hiệu suất.
Sự phổ biến thông tin chính xác và khách quan cũng như tính minh
bạch trong quá trình truyền tải thông tin sẽ tạo điều kiện cho người
dân, đặc biệt là tầng lớp người nghèo thiếu khả năng săn lùng thông
tin, có những quyết định đúng đắn, phù hợp với lợi ích của họ khi tham
gia vào các hoạt động kinh tế.
Nhìn ở mặt vĩ mô, với một nền kinh tế khá mở (tổng kim ngạch thương
mại bằng hơn 150% so với GDP) thì thông tin về các ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực của việc mở rộng giao thương đối với các thành phần khác
nhau trong xã hội là vô cùng cần thiết. Theo đây thì Việt Nam nên thiết
lập một ủy ban gồm những chuyên gia độc lập để nghiên cứu và đưa ra các
bản báo cáo chi tiết hằng năm về tác động của thương mại nhằm tạo ra
một kênh thông tin mới cho xã hội. Dựa trên những thông tin này, người
dân sẽ có những phản ứng thích hợp (thông qua việc khuyến cáo chính
phủ) để bảo vệ hoặc theo đuổi quyền lợi của mình trong quá trình hội
nhập của đất nước.
Bên cạnh đó cũng cần có một ủy ban tương tự để tập trung phân tích
tác động của các hoạt động đầu tư (của cả ba thành phần dân doanh, nước
ngoài, và nhà nước) và công bố rộng rãi đến với toàn dân. Những thông
tin này sẽ làm tiền đề cho những thay đổi chính sách theo hướng thúc
đẩy phát triển kinh tế. Ví dụ, nếu thông tin cho thấy đầu tư của khu
vực nhà nước vào các ngành công nghiệp nặng là không có hiệu quả thì
cần phải có những cuộc đối thoại chính sách hướng đến giải quyết vấn đề
nhằm tránh lãng phí nguồn tài nguyên hữu hạn.
Yếu tố thứ hai, cũng liên quan mật thiết với yếu tố thông tin, là
khả năng được tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và ban
hành chính sách.1
Theo đây thì nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho các nhóm lợi ích được
thành lập hiệp hội và cộng đồng người dân được góp ý vào những chính
sách mà họ trực tiếp chịu ảnh hưởng. Trong một xã hội đa dạng thì bất
cứ chính sách nào cũng tạo ra kẻ được người mất, cho nên muốn giảm
thiểu tác động tiêu cực thì bắt buộc phải tạo điều kiện cho tất cả
những thành phần bị ảnh hưởng của chính sách có cơ hội để bảo vệ quyền
lợi của mình.
Thông qua việc được tiếp cận những thông tin chính xác kèm theo
quyền được tham gia vào quá trình làm chính sách, người dân Việt nói
chung chắc chắn sẽ có được những sáng kiến chính sách đi sát với mục
tiêu phát triển kinh tế. Đến lúc đó thì các vấn đề chuyên sâu như tái
cấu trúc nền kinh tế để nâng cao tính cạnh tranh quốc gia, cải thiện
các hệ thống pháp lý và hành chính, phát triển nông thôn, cải cách giáo
dục... sẽ được định hướng đúng theo tinh thần vì lợi ích của đất nước
nói chung.
Nhưng dù sao đi nữa thì vấn đề mấu chốt vẫn là làm thế nào để có
được hai yếu tố trên. Suy cho cùng thì tất cả cũng quy về một yếu tố
tối thượng đó là con người. Người ta có thể nói khó thực hiện và đổ lỗi
cho hệ thống, cơ chế, yếu tố chính trị.... Nhưng tất cả những cái đó
cũng đều do con người tạo ra, cho nên muốn thực hiện được thì cũng phải
bắt đầu từ yếu tố con người.
Liệu người dân Việt có thể đặt kỳ vọng vào quyết tâm của từng cá nhân lãnh đạo đang ở những cương vị định đoạt hay không?