Phản biện các góc nhìn khác nhau về GD Việt Nam
Qua Tuần VietNam.net, tôi có cơ hội được đọc "Ý kiến của Trường ĐH
Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục ĐH ở Việt Nam", cũng như bài tranh
luận của Giáo sư Koblitz (sau đây tôi gọi là 2 tài liệu). Sau khi đọc
kỹ 2 tài liệu, và phần tổng hợp một số ý kiến của các độc giả khác, tôi
xin trao đổi một số vấn đề.
Cần đặt giáo dục ĐH trong giải pháp tổng thể

Về tài liệu của nhóm tác giả ĐH Harvard về khủng hoảng giáo dục ĐH ở
Việt Nam và đề xuất của nhóm chuyên gia Harvard về giải pháp. Vì bản
đăng trên TuanVietNam.net chỉ là bản tổng hợp nội dung cơ bản, nên có
thể không thông tin đầy đủ và chi tiết cần thiết để hiểu một cách cặn
kẽ hơn. Cảm nhận của tôi là tài liệu đã phác họa thực trạng nền giáo
dục ĐH Việt Nam hiện nay. Các tác giả cũng cung cấp một số thông tin về
giáo dục ĐH ở một số nước khác, tạo điều kiện cho độc giả có thể so
sánh thực trạng của Việt Nam với nước ngoài, qua đó hiểu rõ hơn tính
cấp bách của việc cải cách giáo dục ĐH trong nước.
Trên cơ sở các phân tích, các tác giả đề xuất phương án xây dựng một
cơ sở ĐH mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, phải nói rằng các vấn đề của nền
giáo dục Việt Nam đã được nhiều giới quan tâm, như các nhà lập chính
sách, những người công tác trong ngành giáo dục, và công chúng (nhất là
phụ huynh, các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên, các nhà tuyển
dụng...) phát hiện từ khá lâu.
"Khủng hoảng giáo dục" đã trở thành chủ đề được bàn đến rất nhiều
tại nhiều diễn đàn. Theo tôi, nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt của cả
nền giáo dục là đào tạo ra lực lượng lao động (hay còn gọi là nguồn
nhân lực) có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đất
nước. Tức là những người đã đào tạo phải làm được công việc đã được đào
tạo. Số lao động còn thiếu, nhất là thời gian ban đầu, phải nhập cư từ
nước ngoài vào.
Ngay các nước tiên tiến hiện nay vẫn thiếu một số lao động nhất
định, cả lao động có chuyên môn cao, và giải pháp vẫn là thu hút từ các
nước khác. Nhưng trước hết, lực lượng lao động được đào tạo trong nước,
phải đáp ứng được yêu cầu, không thể để tồn tại tình trạng học ĐH xong
mà không làm được việc trong chuyên ngành của mình.
Song tiếc rằng nhóm chuyên gia chỉ để cập tới khủng hoảng trong giáo
dục ĐH, để từ đó đưa ra đề xuất xây dựng một cơ sở đào tạo ĐH mới, mà
không đặt giáo dục ĐH trong tổng thể toàn hệ thống giáo dục của Việt
Nam.
ĐH là hệ đào tạo rất quan trọng, là khâu cuối cùng chuẩn bị cho lực
lượng lao động trẻ vào đời và đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội, song
nếu toàn bộ hệ thống giáo dục không chuyển biến tốt, thì hệ ĐH không
thể nào tốt được.
Chưa thể xem là giải pháp giải quyết khủng hoảng giáo dục
Những yêu cầu như cơ sở vật chất, nguồn giáo viên thuê từ nước
ngoài, thậm chí cơ chế quản lý đặc thù đều có thể có được trong thời
gian ngắn. Song yếu tố quan trọng là đầu vào, tức là nguồn sinh viên đủ
chất lượng để có thể tiếp thu nền giáo dục tiên tiến đó, thì không thể
có trong ngày một ngày hai. Nếu như học sinh từ ngày đầu tiên đến
trường, cho tới ngày kết thúc phổ thông để vào ĐH, được đào tạo theo
lối học vẹt, thụ động, kiểu đào tạo chạy theo thành tích, thì làm sao
tiếp thu được kiến thức ở một trường ĐH tiên tiến có phương pháp giảng
dạy hoàn toàn khác?
Vì vậy, tính khả thi của một ĐH như vậy không cao, vì số sinh viên
sinh viên đạt tiêu chuyển để tuyển lựa sẽ không nhiều, chưa kể yêu cầu
về ngoại ngữ và năng lực tài chính.
Trong thực tế, nhiều trường, nhiều chương trình liên kết với nước
ngoài hiện nay, tuy chưa phải là chất lượng cao như dự kiến của nhóm
chuyên gia Harvard, thì đã phải châm chước ít nhiều về yêu cầu đối với
sinh viên rồi.
Hơn nữa, liệu một trường chất lượng cao sẽ có tác động bao nhiêu tới
toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam, mà theo số liệu hiện tại đã có tới
376 trường đại học và cao đẳng? Thực là muối bỏ bể. Để trường này có
tác động lan tỏa ra hệ thống rộng lớn, có lẽ phải mất vài thập kỷ. Một
trường ĐH như được đề xuất có thể sẽ là một ốc đảo dành cho một nhóm
elites Việt Nam, và có thể cả một số sinh viên từ nước khác, những sinh
viên vừa đạt yêu cầu về học lực, vừa phải là con nhà giầu.
Một trường như vậy, cũng như một số trường liên kết tương đối có uy
tín, đang hoạt động khá hiệu quả ở Việt Nam nay, không thể tạo ra sự
cạnh tranh trong toàn ngành giáo dục, thậm chí chưa phải là một chất
xúc tác thúc đẩy quá trình cải cách giáo dục ở Việt Nam, vì quy mô quá
nhỏ so với toàn bộ nền giáo dục với hàng triệu sinh viên.
Thực tế, các trường ĐH của Việt Nam vẫn đang ung dung, chẳng phải lo
bị các trường quốc tế (các loại) hay các trường tư thục làm mình mất đi
nguồn tuyển sinh dồi dào. Nếu thành công, nhiều nhất thì một trường
đẳng cấp quốc tế như vậy, chỉ là một tủ kính trưng bày (showcase), hay
du học tại chỗ, chứ không phải là giải pháp cho cải cách giáo dục ĐH ở
Việt Nam. Tuyệt đại đa số sinh viên Việt Nam vẫn vào các trường ĐH Việt
Nam.
Một số người hào hứng về ý tưởng xây dựng "trường ĐH đẳng cấp quốc
tế ở Việt Nam", nghĩ rằng đó là lối thoát cho ngành giáo dục ĐH đang có
quá nhiều vấn đề hiện nay. Muốn có trường đẳng cấp quốc tế, ắt phải cần
nhiều yếu tố, trong đó rất quan trọng là đội ngũ giảng viên và quản lý
của trường, cùng nội dung giảng dậy là hệ thống giáo trình.
Theo nhóm Harvard, đội ngũ quản lý và giáo viên sẽ do các đối tác
quốc tế cung cấp, và giáo trình chắc cũng phải du nhập từ nước ngoài.
Một trường như vậy cũng sẽ giống như "Canon VietNam", "Toyota Vietnam",
hay "Ford Vietnam"....trong ngành công nghiệp hiện nay, với một phần
rất nhỏ nội địa hóa là nguyên liệu Việt Nam - sinh viên.
So sánh một cách thô thiển, chúng ta không thể tự sản xuất được máy
bay Boeing, khi mà nền công nghiệp nước nhà mới chỉ luyện được gang và
lắp ráp đài bán dẫn đơn giản. Vậy theo tôi nên xem tài liệu này của
nhóm Harvard là tài liệu của một dự án, không nên xem đó là giải pháp
đối phó với khủng khoảng của toàn ngành giáo dục ĐH như trong phần đề
dẫn.
Ngoài ra, còn vấn đề quan trọng nữa chưa được giải đáp- chi phí.
Chắc chắn chi phí sẽ rất cao vì phải thuê nguồn nhân lực cao cấp từ bên
ngoài. Ngay dù Việt Nam "chịu chi", và nguồn tiền từ Chính phủ Việt Nam
hay vay nước ngoài, thì vẫn phải cân nhắc tính hiệu quả và phạm vi tác
động của nó. Có nên chăng chi một khoản tiền khá lớn, nhưng sau ít nhất
3-4 năm nữa mới cho ra sản phẩm lứa đầu, chắc không nhiều, với tác động
rất cục bộ, hạn chế, trong khi cải cách giáo dục đang vô cùng cấp bách,
nguồn tài chính cũng hạn hẹp?
Cần có cải cách giáo dục bài bản
Nhân đây, tôi xin nêu ý kiến của cá nhân mình về cải cách giáo dục.
Theo tôi, có lẽ số tiền đầu tư cho một trường "ĐH đẳng cấp quốc tế",
cùng với các nguồn tiền khác, nên được nhanh chóng đầu tư cho một dự án
cải cách giáo dục bài bản, toàn diện, mà bắt đầu từ phương pháp tiếp
cận, xác định ra những gì cần phải làm để cải cách nền giáo dục nước
nhà một cách khoa học, khả thi, hợp lý nhằm kết quả cao nhất. Trong quá
trình này, chắc chắn các nhà hoạch định chính sách cần tham khảo kinh
nghiệm quốc tế, chuyên gia tư vấn nước ngoài, chuyên gia trong
nước...Xác định trước hết mục tiêu của cải cách, cùng các bước đi cần
thiết.
Trong khi chúng ta chưa thật rõ về mục tiêu, chưa xác định cụ thể
bước đi đã vội lao vào sửa đổi Luật GD, thì hẳn sẽ rơi vào tình trạng
"trang trí nội thất, trong khi cần phải củng cố lại cả tòa nhà", như
một vị đại biểu Quốc hội phát biểu tuần trước về Dự thảo Luật Giáo dục
(sửa đổi).
Tôi nghĩ, nếu có một dự án cải cách giáo dục như vậy, phải là một dự
án toàn diện, từ cải cách thể chế giáo dục (luật pháp về giáo dục), tổ
chức hệ thống, quản lý (nhất là quản lý nhà nước về giáo dục), chiến
lược giáo dục, chính sách giáo dục, và điều vô cùng quan trọng, trong
rất nhiều điều quan trọng khác, là phát triển nguồn nhân lực đạt yêu
cầu mới của giáo dục.
Giáo viên phải được đào tạo, hay đào tạo lại. Nếu xây dựng một
trường ĐH kiểu mới, có lẽ trường đó nên là nơi đào tạo ra những cỗ máy
cái (đội ngũ giáo viên và quản lý), những người sau này mang phương
pháp giảng dạy và quản lý mới về các trường ở mọi miền đất nước, thay
vì lập một trường "kiểu mới" chỉ đào tạo sinh viên từ tốt nghiệp bậc
phổ thông thành cử nhân, dù đó là các cử nhân theo tiêu chuẩn quốc tế.
Một trường đào tạo "máy cái" sẽ có tác động lan tỏa rộng và sâu hơn
nhiều.
Vì vậy, mặc dù đề xuất này đáng quan tâm, song có lẽ giải pháp cho
cả hệ thống nằm ở nơi khác. Thời gian vừa qua, người ta đã từng kỳ vọng
rằng để các trường ĐH tư thục phát triển, thì sẽ giải quyết được tình
trạng quá tải ở các trường ĐH hiện có, tạo ra cạnh tranh theo cơ chế
thị trường và từ đó nâng chất lượng đào tạo lên. Nhưng thực tế đã không
như vậy.
Tình trạng trường đại học không đạt tiêu chuẩn chất lượng tràn lan
dấy lên một đợt tranh cãi và truy cứu trách nhiệm mới ! Thay vì kiểm
soát chặt chẽ hoạt động của trường sau khi ra đời, thì người ta lại xây
dựng ra một quy trình vô cùng khó khăn cho việc thành lập trường (từ đó
dẫn đến tiêu cực), và một khi trường đã thành lập xong, việc giám sát
của cơ quan quản lý nhà nước bị buông lỏng.
Thay vì quản lý chất lượng đào tạo ở các cơ sở đó, thì Bộ lại quản
lý bằng cách mỗi năm cấp cho mỗi trường quota được tuyển sinh bao nhiêu
- cái gọi là chỉ tiêu tuyển sinh. Và quota đó có thể thương lượng được.
Cung cách quản lý này đến hiện nay vẫn còn rất phổ biến trong nhiều
ngành, giống như đối với các doanh nghiệp kinh doanh, và sắp tới là các
cơ quan nghiên cứu khoa học.
Cứ nói là hậu kiểm, nhưng cơ bản vẫn là tiền kiểm. Chẳng khác nào ra
luật giao thông rất tỉ mỉ, chi tiết, cấp bằng lái xe rất khắt khe,
nhưng cảnh sát giao thông không làm việc, ai muốn chạy xe trên đường
thế nào thì chạy(!)
Không phải là phương pháp luận khoa học và khó thuyết phục
Là người Việt Nam, rất bức xúc với những vấn đề của nền giáo dục
Việt Nam, tôi đã kỳ vọng bài tranh luận của GS Koblitz sẽ đưa ra những
ý kiến quý báu nhằm giúp cho giáo dục Việt Nam nhiều vấn đề, góp cho
các nhà lập chính sách giáo dục của Việt Nam ý tưởng để tìm ra một giải
pháp toàn diện, hiệu quả, sớm đưa nền giáo dục Việt Nam ra khỏi khủng
hoảng.
Rất tiếc, đọc nhiều lần bài tranh luận tôi chẳng biết mình thu hoạch
được gì. GS đã dành nhiều thời gian, tâm huyết để viết ra một bài gần
20 trang giấy, nhưng hình như chỉ nhằm vào 4 đích:
- Công kích nhóm tác giả Harvard, và Trường Harvard;
- Khơi dậy lòng thù hận của người Việt Nam đối với Mỹ;
- Bài xích nước Mỹ,
- Đề cao các ngành khoa học tự nhiên, nhất là toán học, coi thường
các ngành khoa học xã hội khác (ví dụ trong trường hợp này là khoa học
quản lý), đề cao mình, và quảng bá cho một quỹ mà GS là đồng sáng lập.
GS đã dành khá nhiều lời để đào bới lịch sử, phanh phui lý lịch cá
nhân của nhóm tác giả Harvard, sự việc không hề liên quan đến công
trình của nhóm tác giả Harvard, dùng đó làm minh chứng để bác bỏ độ tin
cậy của tài liệu do nhóm tác giả Harvard đưa ra.
Tôi nghĩ đó không phải là phương pháp luận khoa học và không có sức
thuyết phục. Rất nhiều người Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam, đã trở
lại đất nước này với cách nhìn nhận mới, từ những cựu binh Việt Nam
bình thường đến những cựu binh nay đã nổi tiếng như John McCaine, John
Kerry, v.v. Nhiều người trong số họ đang cố gắng làm cái gì đó cho Việt
Nam với thiện chí. Quan hệ giữa nước Việt Nam với Hoa kỳ đã có những
trang sử rất đau buồn. Việt Nam cũng có những trang sử đau buồn với một
số nước khác.
Người Việt Nam không bao giờ quên lịch sử, song đã khép lại quá khứ,
nhìn về tương lai. Chiến tranh đã qua đi hơn ba mươi năm. Việt Nam và
Hoa kỳ đã bình thường hóa quan hệ từ lâu, và đang cùng nhau xây dựng
quan hệ hữu nghị, hợp tác.
Bài viết của GS Koblitz là ác ý, không có lợi cho quan hệ đang phát
triển giữa hai nước. Nhạo báng một trường ĐH hàng đầu thế giới và văn
bằng của nó, được cả thế giới thừa nhận, miệt thị trình độ học vấn của
người khác, chê khéo ngay cả chuyên gia hàng đầu của Việt Nam trong
lĩnh vực được thảo luận có lẽ không phải là cách khôn ngoan để nâng cao
uy tín của cá nhân mình, và khó thu phục được sự đồng tình của độc giả
Việt Nam. Đúng là hệ thống giáo dục của Hoa kỳ vẫn có khiếm khuyết.
Không một hệ thống giáo dục nào trên thế giới là hoàn hảo.
Có cái hôm nay có thể là hoàn hảo, nhưng ngày mai thì không phải như
vậy nữa. Đòi hỏi của người dân về một nền giáo dục ngày càng tốt hơn là
chính đáng, tự nhiên, liên tục và xẩy ra ở bất kỳ nước nào.
Dù sao vẫn phải thừa nhận rằng nền giáo ĐH của Mỹ đang chiếm vị trí
hàng đầu thế giới. Trong bất kỳ trang web xếp hạng các trường ĐH trên
thế giới nào, dù là của Mỹ, Úc, Anh, Tây Ban Nha, Italia....với mức độ
uy tín khác nhau, thì ta vẫn thấy các trường ĐH của Mỹ chiếm hầu hết
các vị trí hàng đầu trong số 100 trường tốt nhất thế giới. Chẳng lẽ hệ
thống giáo dục ĐH của Mỹ không còn gì để giáo dục Việt Nam tham khảo và
học tập?
Hơn nữa, không biết lớp trẻ Việt Nam đọc bài này sẽ thu hoạch được
gì, khi thấy tác giả tự bài xích, công kích chính tổ quốc của mình?
Người Việt Nam không muốn thay thế hệ thống XHCN hiện nay bằng "hình
thức phương Tây cả về kinh tế và chính trị", như một số nhà tri thức
hàng đầu của Liên Xô mà GS Koblitz đề cập. Việt Nam vẫn tự hào là một
nước đổi mới thành công.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
được cả người dân trong nước và cộng đồng quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên,
trong quá trình đổi mới, không phải Việt Nam không có những vấp váp.
Việt Nam vẫn còn phải nỗ lực nhiều hơn nữa, mà cải cách hệ thống giáo
dục là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Trong quá trình
đó, nếu Việt Nam tham khảo, vận dụng kinh nghiệm về giáo dục đào tạo
của các nước tư bản chủ nghĩa, không có nghĩa như vậy là hệ thống TBCN
sẽ tiến tới thay thế hệ thống hiện tại của VN.
Người Việt Nam cũng hiểu rõ rằng cả những nước phát triển nhất trên
thế giới, dù là Mỹ, hay nước nào khác, cũng có vấn đề của mình. Không
nước nào hoàn thiện. Tuy nhiên, ở các nước đó có nhiều điều để Việt
Nam, một nước phát triển sau, tham khảo, học tập và vận dụng phù hợp
vào nước mình.
Quảng bá một quỹ đào tạo và đề cao cá nhân?
Tôi có cảm nhận rằng trong khi tài liệu của nhóm chuyên gia Harvard
có vẻ chỉ là đề dẫn của một dự án - tức là phân tích thực trạng giáo
dục ĐH của Việt Nam để đi đến đề xuất một dự án cụ thể là lập một cơ sở
ĐH, thì tài liệu của GS Koblitz lại mang dáng dấp của việc tuyên truyền
cho các ngành khoa học tự nhiên, quảng bá cho một quỹ đào tạo cụ thể và
tự đề cao cá nhân.
Những giải pháp mà tài liệu này đưa ra như tăng lương cho giáo viên,
tăng kinh phí cho một số lĩnh vực cụ thể đã từng được đề cập rất nhiều
lần trên nhiều diễn đàn về giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Và đó cũng chỉ
là một biện pháp đơn lẻ trong giải pháp tổng thể đã được đề xuất nhiều
lần ở Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, đã có khá nhiều tài liệu nghiên cứu, khảo sát,
hội thảo....về đề tài giáo dục Việt Nam do các nhà nghiên cứu Việt Nam,
kể cả những người đã từng lãnh đạo ngành giáo dục trong nhiều năm,
những học giả Việt Nam uyên bác, tâm huyết, cả đời gắn bó với sự nghiệp
giáo dục, có sự hợp tác với một số tổ chức quốc tế, và các cơ quan
nghiên cứu chuyên ngành của nhà nước ....thực hiện.
Mặc dù hiện nay vẫn chưa đạt được một định hướng chiến lược tương
đối rõ ràng nào nhằm giải quyết vấn đề mang tính chất hệ thống, nghiêm
trọng và sâu rộng của toàn bộ nền giáo dục đào tạo của nước ta, Dự thảo
sửa đổi Luật Giáo dục hiện đang được Chính phủ trình Quốc hội cũng còn
rất nhiều ý kiến khác nhau, ngay tại Quốc hội. Nhưng theo tôi, có thể
vì là người Việt Nam, những người trong cuộc, cọ xát với thực tiễn giáo
dục Việt Nam, lại tiếp cận được những thông tin mới, kinh nghiệm mới
của quốc tế, và khá nhiều trong số họ được trải nghiệm cả hai hệ thống
giáo dục khác nhau, nên hiểu thấu vấn đề của Việt Nam hơn bất kỳ nhà
nghiên cứu nước ngoài nào.
Chỉ có điều, tri thức của họ chưa được khai thác triệt để mà thôi.
Chúng ta luôn luôn trân trọng và cầu thị lắng nghe ý kiến đóng góp, tư
vấn, thậm chí phê phán một cách xây dựng của cộng đồng quốc tế.
Trong thực tế, từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, Việt Nam đã mời hàng
ngàn chuyên gia tư vấn nước ngoài tới trao đổi kinh nghiệm, tổ chức
nghiên cứu, đánh giá thực trạng... giúp Việt Nam cải cách trong nhiều
lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, hải quan, cải cách hành chính, cải
cách luật pháp, xây dựng chiến lược ngành của nhiều ngành. .v.v Việt
Nam cũng đã cử rất nhiều đoàn cán bộ, thuộc nhiều cấp, đến nhiều nước
trên thế giới và khu vực, cả những nước xa xôi ở châu Mỹ La tinh, Trung
Đông.....học tập kinh nghiệm. Có lẽ không có lĩnh vực kinh tế, xã hội
nào của Việt Nam không có sự đóng góp của kinh nghiệm quốc tế.
Có lẽ vì vậy mà Việt Nam tránh được nhiều sai lầm mà các nước đi
trước đã gặp phải. Tuy nhiên, một số người nào đó lợi dụng các diễn đàn
Việt Nam để công kích, miệt thị cá nhân nhau, đề cao cơ sở này, hạ uy
tín cơ sở khác, là điều không thể chấp nhận được.
Hơn nữa, liệu việc sử dụng một số diễn đàn của Việt Nam để khơi dậy
lòng hận thù dân tộc có đi ngược lại chính sách đối ngoại hòa bình, hữu
nghị, làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp công việc nội bộ của nhau
mà Việt Nam đang theo đuổi hay không?
Cuối cùng, theo tôi những bài tranh luận mang chính kiến cá nhân,
như bài của GS Koblitz, nên được đăng tải ở một nơi nào khác, như các
tạp chí, các tờ báo (cả báo viết và báo trên mạng), hay trên các diễn
đàn cộng đồng.v.v. thì thích hợp hơn là trên trang web chính thức của
một cơ quan Chính phủ.
Theo báo Tuanvietnam.net