"Người ta từng hăng hái đề nghị vẽ Hà Nội hình nắm đấm"
LTS: Vì sao đã mấy chục năm qua khát khao có một đô thị
văn minh hiện đại vẫn còn là giấc mơ xa vời? Là do chúng ta chưa biết
làm quy hoạch; là hệ quả của lối tư duy ấu trĩ đâu đó vẫn dai dẳng....?
Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin giới thiệu tiếp phần hai bài
viết thể hiện góc nhìn riêng của KTS Nguyễn Trọng Huấn.
Nhu cầu cuộc sống sinh ra ngành quy hoạch đô thị. Nếu kiến trúc sư
công trình sắp xếp không gian cư trú cho một gia đình lớn khoảng trong
ngoài chục người thì quy hoạch sư làm việc đó cho trong ngoài chục vạn,
có khi đến cả chục triệu người như Hà Nội mở rộng hoặc thành phố Hồ Chí
Minh tương lai.
Suốt chín năm kháng chiến, chúng ta rút ra khỏi các thành phố, xây
dựng căn cứ ở vùng rừng núi vì vậy sự tác động đối với hệ thống đô thị
không đáng kể. Sau ngày 10/10/1954, Thủ đô gần như nguyên vẹn. Hà Nội
và các đô thị khởi đầu cuộc sống mới, quy hoạch xây dựng lại trên nền
tảng những thành phố thuộc địa lâu đời theo phong cách châu Âu do người
Pháp quy hoạch và xây dựng.
Chúng ta mất 2 năm để tập hợp lực lượng (1954 - 1956).
Khoảng 14 kiến trúc sư thiết kế công trình dân dụng, tất cả đều
xuất thân từ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương - có khuynh hướng
thiên về sáng tác nghệ thuật hơn là nghiên cứu sản phẩm - tề tựu về
Nha Kiến trúc trong Bộ Thủy lợi và Kiến trúc. Không có một kiến trúc sư
quy hoạch nào. Quy hoạch đô thị là khái niệm mà ngay cả những ông thầy
cũng phải bắt đầu từ chữ A.
1956 - Thành lập Phòng Đô thị.
1957 - Đại hội Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam lần thứ II. Lúc này, vì
cần tập hợp lực lượng, mời cả những người không phải là kiến trúc sư
nhưng có quan tâm đến sự nghiệp kiến trúc tham gia. Số lượng đoàn viên
lên đến 100 người. Đây là bước khởi đầu cho quá trình mãi về sau, có tý
chức, tý quyền trong ngành xây dựng là có thể tham gia hội này một cách
tự nhiên, một cách thẩm thấu làm biến dạng môi trường kiến trúc dẫn
đến những nhận thúc thiếu chuẩn mực về đặc thù nghề nghiệp của ngành
này.
 |
Ảnh tư liệu |
1958 - Bộ Kiến trúc tách khỏi Bộ Thủy lợi và Kiến trúc. Thành lập
Cục Đô thị và Nông thôn, với 23 cán bộ các loại, trong đó có 04 kiến
trúc sư cũng từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương.
Chuẩn bị cho miền Bắc bước vào thời kỳ phục hồi và phát triển kinh
tế, xây dựng công nghiệp và đô thị, Nhà nước mời các đoàn chuyên gia
Liên Xô, Trung Quốc và Ba Lan sang giúp nghiên cứu quy hoạch Hà nội,
Hải Phòng, Thái Nguyên, Việt Trì. Rất nhiều cán bộ tay ngang, do yêu
cầu, được điều động về, chung lưng gánh vác trọng trách. Vừa làm vừa
học.
1961 - Thành lập Viện Thiết kế Quy hoạch Đô thị và Nông thôn. Phương
châm ngành là: "Quy hoạch phục vụ công nghiệp, phục vụ sản xuất, phục
vụ đời sống của đông đảo nhân dân lao động kết hợp với yêu cầu quốc
phòng".
Nhận thức luận, hệ thống lý thuyết quy hoạch và mô hình đô thị Xô viết lần đầu tiên được truyền bá vào Việt Nam.
Cũng trong năm 1961, miền Bắc mở lớp đào tạo kiến trúc sư, giảng dạy
theo giáo trình kiến trúc Xô viết, dịch từ sách Nga, nhưng tinh thần,
khuynh hướng dường như vẫn chịu ảnh hưởng của Cao đẳng Mỹ thuật Đông
dương. Kỹ năng vẽ (chưa hẳn đã là năng khiếu thẩm mỹ) được coi là một
ưu tiên. Sinh viên trúng tuyển phần đông là học sinh các trường phổ
thông. Những sinh viên vẽ kém, cán bộ, đảng viên được cử đi học, phần
lớn bố trí theo ngành quy hoạch. Những đảng viên này, nhiều vị xuất
thân cán bộ xã đi tập kết, giỏi "đấu tranh giai cấp" nhưng tiếp thu
kém. Nhiều vị đi học nhưng ghế bàn đã dọn, chờ sẵn ở cơ quan, nên chỉ
học làm phép, thầy cũng phải ngán, chấm tốt nghiêp cho rồi. Quy ước bất
thành văn này dẫn đến nhiều khập khiễng trong bố trí lực lượng sau
này. "Dốt chuyên tu - Ngu quy hoạch" từng là khẩu ngữ quen thuộc trong
môi trường đào tạo kiến trúc sư những năm đầu ở nước ta.
Thực trạng trên phản ánh hai góc tiếp cận:
"Khuynh hướng", nếu được phép tạm gọi như vậy, từ trường Cao đẳng
Mỹ thuật Đông dương coi kiến trúc là nghệ thuật, một hoạt động thuộc
lĩnh vực sáng tạo, mang dấu ấn cá nhân tác giả, thì "khuynh hướng Xô
viết", coi kiến trúc là một bộ phận cấu thành của nền công nghiệp xây
dựng. Kiến trúc là công đoạn khởi đầu, cần có sự tham gia đóng góp ý
kiến của tập thể để nâng cao chất lượng. Mà đã là sản phẩm công nghiệp,
có thể sản xuất hàng loạt thì ai học mà chả làm được.
Kiến trúc được xếp vào khung lương ngành công nghiệp nặng. Kiến trúc
sư được coi là cán bộ thiết kế, cùng thang và hệ số lương với kỹ sư cơ
khí, kỹ sư giao thông, kỹ sư san nền, cấp thoát nước... Không có chuyện
kiến trúc sư ghi tên dưới chân công trình. Sản phẩm là của tập thể, đồ
án xuất xưởng thuộc viện nọ, viện kia, chất lượng thuộc trách nhiệm cơ
quan này, cơ quan khác, chuyện của lãnh đạo. Kiến trúc sư chỉ ký tên
mình trong bảng lương lĩnh tiền.
Quy hoạch và kiến trúc đặt dưới sự quản lý của một bộ lấy chức năng
sản xuất làm nhiệm vụ chính trị trung tâm. Làm ra xi măng, sản xuất
gạch ngói, xây khu công nghiệp... tăng năng suất, tăng sản lượng mới là
chuyện cần bàn, cần tập trung để hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá. Công
trình kiến trúc bé tý, không thể đòi được đối xử đồng hạng với ngàn tấn
xi măng, với sản lượng gạch tính bằng triệu viên. Phương châm thiết kế
được minh định là: "Tiện dụng - Bền vững - Mỹ quan trong điều kiện có
thể".
Riêng quy hoạch là một lĩnh vực nhạy cảm, tiếp cận hàng ngày với
những tư liệu, tài liệu được cho là mật, những chủ trương, kế hoạch
quan trọng của địa phương, của quốc gia, thường xuyên phải tiếp xúc với
lãnh đạo, ít nhất là Thường vụ tỉnh ủy. Thỉnh thoảng lãnh đạo Đảng hoặc
Nhà nước gọi báo cáo. Trước cuộc họp có an ninh, bảo vệ đến rà mìn nên
nhân sự cần được quản lý chặt. Mà như đã trình bày ở trên, bộ khung
nhân sự cho quản lý được chọn từ trong trường, vững vàng về quan điểm
lập trường nhưng học lực có hơi yếu. Đã có sinh viên xin: "Thầy cho em
đỗ đi. Đảm bảo với thầy ra trường em không làm kiến trúc đâu, thầy yên
tâm, em chỉ làm lãnh đạo". Chuyện thật như đùa, không biết nên khóc hay
cười, nhưng khi kể lại, sống mũi thấy hơi cay cay!
 |
Ảnh: cafeF |
Trong hoàn cảnh đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, một đồng, một cắc
đầu tư vào xây dựng cơ bản cũng phải quý, nhưng cũng không thể phủ nhận
quan niệm và cách thức quản lý này không để lại những hệ lụy về sau.
Đặc biệt, quy hoạch là một hình thức lao động đám đông, Hội đồng khoa
học hay "bộ tứ" cơ quan, gồm nhiều ông, bà chẳng cần biết quy hoạch là
gì, có thể làm sụp đổ ý tưởng mà kiến trúc sư thai nghén, ấp ủ nhiều
năm, biến đồ án thành thành quả chung của mọi người. Quan điểm của tổ
chức và cung cách quản lý một thời vừa coi quy hoạch là chuyện hệ
trọng, vừa là chuyện xa vời, 25 năm sau, vẽ thế nào chẳng được, vẽ
xong, xoá đi, vẽ lại mấy hồi, có xây đâu mà lo, đã biến quy hoạch thành
một chuyện hài hước, thiếu nghiêm túc.
Khoảng năm 1972- 1973, Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn họp hội
nghị xin ý kiến các ngành về Quy hoạch Thủ đô Hà Nội mở rộng đại biểu
Hội Mỹ thuật đã hăng hái đề nghị ta nên vẽ "một Hà Nội hình nắm đấm,
hướng về phía Nam "để thể hiện ý chí" đánh cho Mỹ cút".
Không ít nơi, thậm chí nhiều thời kỳ, trong các cơ quan thiết kế
kiến trúc, quy hoạch, kiến trúc sư có chút máu nghệ sỹ là một cái tội,
như con vịt con xấu xí lạc giữa bầy thiên nga, khó lòng cải tạo!
10 đời viện trưởng có 5 đời là cán bộ chính trị
Ở nước ta, cho đến tận bây giờ, quy hoạch là một loại công trình
không có tác giả, không ai phải chịu trách nhiệm về những thiếu sót,
thậm chí, những sai lầm khiếm khuyết của đồ án. Nếu cần xoá đi, làm lại
đã có sẵn một mỹ từ: "Điều chỉnh quy hoạch".
Cách hiểu như trên đã để lại khá nhiều dấu ấn trong bộ máy tổ chức
ngành. Ông nào cũng có thể làm lãnh đạo quy hoạch được. Từng có ông
phó tiến sỹ vật liệu xây dựng làm Hiệu trưởng một trường đại học kiến
trúc ở phía Bắc, trong khi một ông kỹ sư kết cấu làm hiệu trưởng một
trường đại học kiến trúc ở phía Nam! Còn các ông phó tiến sỹ cấp thoát
nước, phó tiến sỹ san nền tiêu thủy, thậm chí có những ông chẳng cần
một mảnh bằng nào cả cũng có thể làm được viện trưởng một viện quy
hoạch.
Riết rồi quen, ai lãnh đạo quy hoạch cũng được, thành ra tự nhiên,
chuyện hàng ngày ở huyện. Sau ngày thống nhất đất nước, đã có ông,
trong một năm rải quân đi địa phương, làm xong 145 quy hoạch thị trấn
huyện lỵ! Mấy ông này, mất tích ngay sau khi về hưu, thỉnh thoảng xuất
hiện ở cuộc họp hưu trí cuối năm, nói cười rổn rảng.
Suy cho cùng, cũng không phải lỗi của họ. Chính họ đã chứng minh
được một điều mà ông bà chúng ta đã tổng kết từ lâu: "Thợ may ăn giẻ -
thợ vẽ ăn hồ". Mỗi người một nghề, ai làm việc nấy. Lỗi là tại cái nghề
quy hoạch quá đa mang, chút kinh tế, chút kỹ thuật, chút nghệ thuật,
giao thông đô thị, cấp điện, cấp nước, tiêu thủy san nền, cống rãnh,
thoát nước, công viên cây xanh... đấy là chưa kể cần có thêm dự báo
học, xã hội học đô thị... xét thấy cũng nên tham gia.
Tổng kết 50 năm thành lập Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn 1956 -
2006, trong 10 đời viện trưởng thì hết 5 đời là cán bộ chính trị, không
hiểu biết gì về quy hoạch, hoặc nghề nghiệp không liên quan gì đến quy
hoạch. Tổng thời gian "trị vì" của các vị này chiếm 21/50 năm. Năm viện
trưởng còn lại, là kiến trúc sư quy hoạch giỏi, là những công chức mẫn
cán, nhưng rất tiếc là năng lực chưa tương xứng với tầm nhiệm vụ được
giao. Không thể trách họ vì dù sao họ cũng chỉ là người thừa hành.
Nguyên nhân nằm ở những chỗ cao hơn, những người vạch đường đi nước
bước cho đất nước, những người có quyền lực và trách nhiệm sắp xếp công
việc và nhân sự.
Rà lại lịch sử phát triển ngành quy hoạch Việt Nam từ ngày thành
lập, đọc lại danh sách, xem lại chân dung những nhân vật một thời,
nhiều trường hợp không thể không cười ra nước mắt !
Không thể tính nổi những lãng phí vô cùng to lớn kéo dài nhiều thập
kỷ qua do cách làm này. Và cũng không một ai phải chịu trách nhiệm về
những hệ lụy mà xã hội và đất nước phải gánh chịu về những tổn thất mà
công tác quy hoạch đã gây ra.
Sự khác biệt quan điểm từng dẫn đến một cuộc tranh chấp không thể
quên: "kiến trúc là nghệ thuật hay kỹ thuật?". Và thuộc quyền quản lý
của ai?
Thân phận của lớp kiến trúc sư đầu tiên của nước ta do bộ Kiến trúc
mở năm 1961 đã có lúc trôi dạt, trở thành một khoa của trường Đại học
Xây dựng do Bộ Đại học quản lý. Hội Kiến trúc sư Việt Nam, một thời do
văn phòng Bộ Kiến trúc quản lý cũng chịu thân phận của chú vịt con xấu
xí khi lạc vào Hội Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam! Ở đây người
ta "sỹ" cả, sao các ông lại "sư"? Còn quy hoạch? Là thứ gì và lạc đến
từ hành tinh nào vậy?
1962 - Thành lập Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước, thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Một thiết chế để
quản lý công tác quy hoạch và cả thiết kế kiến trúc khởi đầu từ đây.
Ủy ban này cũng là một thân phận long đong. Chẳng phải do trình độ,
năng lực giữa Ủy ban với Bộ Kiến trúc, mà là sự tranh chấp quyền lực
giữa Bộ và Ủy ban. Ai quản lý ai? Đã có lúc Ủy ban này phải giải thể,
sáp nhập vào Bộ Kiến trúc. Rồi lại tách ra, tái lập Ủy ban Xây dựng cơ
bản Nhà nước, khác nhau mỗi chữ kiến thiết đổi lại là xây dựng. Rồi lại
giải thể, nhập vào Bộ Xây dựng. Tất cả động thái trên chỉ chứng minh
một điều, nhận thức về một công cụ quản lý ngành xây dựng cơ bản cấp vĩ
mô, trong đó có quản lý quy hoạch luôn ở trong tình trạng lúng túng,
chưa bao giờ mạch lạc, rõ ràng cho đến nay. Mà xem ra hiện nay lại còn
rối hơn trước nữa.
Quy hoạch một đường, cuộc sống một nẻo
 |
Ảnh: dothi.net |
Hoà bình trên miền Bắc kéo dài trong khoảng 10 năm, từ 1954
đến 1964. Trong mười năm đó, thực trạng kinh tế - xã hội trải qua
những biến động chưa từng xảy ra trong đời sống đất nước. Công cuộc
chuyển hoá nền kinh tế của một nước nông nghiệp, lạc hậu, một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, đang kiệt quệ vì vừa trải qua chiến tranh có
rất nhiều việc cần làm và phải làm. Xã hội chưa định hình, tiền đề đô
thị hoá để tiến hành quy hoạch chưa chín muồi. Mô hình đô thị Xô viết
hoàn toàn mới mẻ, đòi hỏi thay đổi phương thức sống, tổ chức lại xã hội
đô thị theo mô hình mới, áp lên một thực thể đô thị Việt Nam từng được
sinh ra và hình thành từ những hoàn cảnh khác, nguyên nhân và điều kiện
hoàn toàn khác, không thể không gây đổ vỡ.
Thiết kế quy hoạch lúc ấy, thực chất chỉ có tính hình thức, là
những bài học trên giấy, trong văn phòng, chủ yếu nhằm đào tạo, xây
dựng lực lượng, tập dượt cán bộ chuẩn bị cho tương lai. Quy hoạch một
đường, cuộc sống một nẻo. Cũng may là giai đoạn này không xây dựng gì
nhiều và các đồ án quy hoạch, sau khi báo cáo, trình bày, phần lớn đùng
để gói được nhiều thứ.
Từ 1964 đến 1975, chiến tranh lan rộng, miền Bắc trở thành chiến
trường, công cuộc xây dựng đô thị trên miền Bắc, thực chất đã tạm
ngưng. Những đồ án quy hoạch được nghiên cứu trong giai đoạn này chỉ có
giá trị những bài tập minh họa cho một số nguyên lý vừa được học.
Không một đồ án quy hoạch cho bất cứ thành phố nào tiến hành trong giai
đoạn này tồn tại như một giá trị nghiên cứu, chưa nói đến tác động của
chúng lên đời sống xây dựng, vì thực tế nước ta trong thời kỳ đó không
hoạt động xây dựng.
Những số liệu đáng lưu tâm
Trong
86 năm chiếm đóng, đô hộ, mãi năm 1925, tức là 66 năm sau (1859 -
1925), người Pháp mới mở khoa Kiến trúc, trong Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông dương, đào tạo kiến trúc sư cho người Việt, loại hình kiến trúc sư
thực hành với phong cách nghệ sỹ, thiên về nghệ thuật sáng tạo.
Trong
20 năm từ 1925 đến 1945, trường đào tạo được 11 khoá với trên 50 kiến
trúc sư, mỗi khoá từ 2 đến 5 người, tốt nghiệp ra trường, hành nghề tự
do.
Cũng trong 20 năm đó, Trường đã cấp văn bằng tốt
nghiệp cho 128 họa sỹ, sau này có những họa sỹ trở thành nổi tiếng như
Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên... Không
có khoa Quy hoạch đô thị.
Cho đến 1945, nước ta có 50
kiến trúc sư công trình cho 25 triệu dân, đạt 0,002 kts/1.000 dân,
nhưng không có một "nhà quy hoạch" nào.
Đấy là lý do
tại sao sau 1954, công việc tái thiết miền Bắc bắt đầu, "quy hoạch" là
một khái niệm hoàn toàn xa lạ với một lực lượng chuyên ngành bằng 0.
|
Theo báo Tuanvietnam.