Người Việt xưa quy hoạch đô thị hoành tráng chẳng kém ai
Vài chấm phá về vốn liếng đô thị của người Việt
Trước khi người Pháp thôn tính nước ta, người Việt dường như đã từng
xây dựng trên đất nước mình, cho nhân dân mình một hệ thống đô thị
không kém phần đàng hoàng, to đẹp.
Một dải giang sơn từ Lạng Sơn đến Cà Mau, mất gần 100 năm chúng ta
mới có được hệ thống đô thị như được mô tả trong con mắt săm soi của
những giáo sỹ phương Tây trên đường truyền giao đã qua lại nước ta:
không một địa phương nào không có "thành" và "thị".
Những dấu tích còn sót lại của hệ thống đô thị nguyên bản ấy như
Huế, Hội An, sau ngày nước nhà thống nhất - trong thực trạng còn ngổn
ngang dấu tích đổ nát của chiến tranh - đã nhanh chóng được Tổ chức Văn
hoá - Giáo dục và Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận và ghi
tên vào danh mục "di sản văn hoá thế giới để được bảo vệ vì lợi ích của toàn nhân loại".
"... Có sóng sông Hương ru vỗ du dương, bao bọc bởi những vườn
cây xanh tốt, được trang trí thêm bởi vườn tược xum xuê, có những dòng
kênh như thêu ren, chạm khắc, thành phố Huế là một kiệt tác về thơ kiến
trúc đô thị...".
Những nhận xét trên của Amadou Mahta M'bow, nguyên Tổng giám
đốc UNESCO, rất có thể không chỉ nói riêng về Huế. Cách thức ấy đã là
nguyên lý trong xây dựng đô thị Việt nam, "tiền án, hậu chẩm, tả phù,
hữu bật", một dòng nước chảy qua trước mặt được chọn làm minh đường.
Tri thức khoa học cơ bản của người Việt khi tiến hành xây dựng một
công trình, một đô thị dựa vào thuật phong thủy, vào bố cục sẵn có từ
núi sông, căn cứ nơi âm dương, ngũ hành mà thêm bớt, dựng đặt. Vì vậy
người Việt chúng ta rất coi trọng thiên nhiên, tựa lưng vào núi, ngoảnh
mặt ra sông, cùng với núi sông tồn tại và phát triển.
Trên toàn cõi Việt Nam, những đô thị giàu chất thơ, "... có những dòng kênh như thêu ren, chạm khắc...", chắc chắn không chỉ có Huế. Tiếc là khi Tiến sỹ Amadou Mahta M'bow đến Việt Nam, những thành phố ấy đã không còn!
Chiếu dời đô của vị vua khởi đầu nhà Lý khi chọn đất để định đô Thăng Long chẳng đã chỉ rõ: "...
Ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc
đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng
phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm,
muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi
thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi
thượng đô kinh sư mãi muôn đời..." (Đại Việt sử ký toàn thư - Chiếu dời đô - Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - NXB KHXH, Hà Nội - 1993).
Khi nhà Nguyễn chọn Phú Xuân làm nơi định đô cũng dựa vào hình sông thế núi: "...Kinh
sư là nơi miền biển miền núi đều họp về, đứng giữa miền nam, miền bắc,
đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng; đường thủy thì có cửa Thuận An
cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành Sơn, Hải Vân ngăn chặn;
sông lớn giăng phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn, hổ ngồi,
hình thế vững chãi..." (Đại nam Nhất thống chí - Quốc sử quán - Bản dịch Viện Sử học - Hà Nội 1969).
Trên khắp đất nước, từ Bắc vào Nam, những công trình thuần Việt một
thời xưa cũ - không bị người Pháp triệt hạ, còn sót lại đến nay - trong
hệ thống đền chùa như chùa Keo ở Thái Bình với tháp chuông ba tầng bằng
gỗ được chế tác tinh xảo; như Đình Bảng ở Từ Sơn, Bắc Ninh, chùa Thầy,
chùa Tây Phương ở Hà Tây (nay là Hà Nội), chùa Thiên Mụ ở Huế, chùa Yên
Tử ở Quảng Ninh, hội tụ triết lý tư duy Việt chắt lọc trải đã nhiều
đời,... và nhiều công trình khác nữa, đều trở thành danh thắng, đều
cùng với cảnh quan thiên nhiên tạo nên một tiểu vũ trụ quyến rũ.
Thử hình dung, nếu những kiệt tác kiến trúc ấy cùng tồn tại trong
một không gian đô thị hoàn chỉnh vốn có của kinh thành Thăng Long xưa,
với hệ thống những công trình đã bị chiến tranh và thời gian hủy hoại
như chùa và tháp Báo Thiên, chùa Chân Giáo, Chân Tiên, chùa Châu Lâm,
Châu Long... cùng các phủ đệ thời Lê - Trịnh bên bờ hồ Thủy Quân kéo
dài từ hồ Tây qua hồ Gươm đến Đồn Thủy, và các đô thị cổ của người Việt
từng xây dựng trong nhiều thế kỷ, chắc chắn rằng bộ mặt hệ thống đô thị
Việt Nam không thua kém bất cứ một hệ thống đô thị nào đồng thời trên
thế giới, ít nhất vì tính đặc sắc và vẻ quyến rũ riêng.
Cảnh quan hồ giữa trung tâm, nhà xinh, phố xinh soi mình bóng nước,
những hàng lộc vừng cổ thụ trải thảm, thêu hoa trên từng bước chân
chính là nét đẹp còn giữ được của Hà Nội nghìn năm làm say đắm lòng
người.
Rõ ràng cảnh vật Thăng Long xưa đã gợi thi hứng cho không ít thế hệ
thi nhân, để lại cho đời sau nhiều tác phẩm thi ca bất hủ. Thăng Long
không đẹp, không có "nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang" thì văn học Việt không thể có Bích câu kỳ ngộ.
Thăng Long xưa, nếu không bị chiến tranh thực dân xâm lược,
thời gian và sự vô tâm, kể cả chủ nghĩa thực dụng của con người tàn
phá, chắc chắn cũng sẽ trở thành " Một - Thành - phố - Thơ" không khác
gì Huế và Hội An trong cặp mắt tinh tường của các chuyên gia UNESCO.
Chỉ nói riêng về chùa Một Cột, yếu tố còn sót lại của tổng thể kiến
trúc chùa Diên Hựu thời mới dựng đặt. Với kích thước cực kỳ khiêm tốn,
chùa Một Cột là một kiệt tác kiến trúc khi thể hiện hình tượng đoá sen
vàng từng xuất hiện trong một giấc mơ vương giả. Ở đây có một vấn đề
cần nhắc lại, kích thước nghệ thuật không hoàn toàn lệ thuộc vào kích
thước vật lý, mà lệ thuộc vào kích thước tư duy và độ rung cảm của tài
năng sáng tạo. Diễn đạt thành công một giấc mơ bằng ngôn ngữ kiến trúc
là trường hợp hiếm hoi, ít gặp trong lịch sử kiến trúc nhân loại.
Nhiều người thường so sánh Ngọ môn của kinh thành Huế với Thiên An
môn ở Bắc Kinh và có ý chê rằng Ngọ môn quá nhỏ (!?). Xin nhớ cho sự
chênh lệch về dân số và đất đai, Thiên An môn là công trình nghi lễ của
một quốc gia thời đó với ít nhất từ 300 đến 500 triệu dân, trong khi
đó, dân số Việt chỉ khoảng trên năm triệu người, khoảng cách ít nhất là
60 đến 100 lần.
Tuy nhiên, xét về phương diện nghệ thuật, một Ngọ môn với lầu Ngũ
Phụng ở kinh thành Huế giá trị nghệ thuật không thua kém, nếu không nói
là hơn hẳn Thiên An môn về tính nhân văn. Cùng một công năng, nhưng Ngọ
môn thân thiết, gần gũi hơn, hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn.
Thiên An môn là một khối kiến trúc chắc nịch, khô khốc, hoàn toàn
không có cây xanh, kích thước khủng bố, ngay từ màu sắc, tạo ấn tượng
khống chế của quyền lực thiên tử đối với thần dân, bằng một tỷ lệ phi
nhân tính. Trong khi Ngọ môn với ngói lưu ly, lầu Ngũ Phụng, vút bay
như một cánh chim, thơ thới, nhẹ nhàng, hoà vào thiên nhiên, đầy chất
thơ.
Nhiều nhà chuyên môn trên thế giới đã phải thừa nhận tổng thể lăng
mộ triều Nguyễn là một giá trị thi ca như một sáng tạo song hành bên
những giá trị cảnh quan kiến trúc.
Bản sắc đô thị Việt Nam là gì?
Nếu không bị hủy hoại, những đô thành của hệ thống đô thị thuần Việt
mà cha ông ta đã xây dựng trên đất nước này chắc chắn đã đóng góp cho
diện mạo văn hoá - nghệ thuật nhân loại nhiều kiệt tác tầm cỡ không
thua kém bất kỳ ai.
Chỉ riêng việc các nhà khảo phát lộ di tích Hoàng thành Thăng Long
năm 2003, nơi quảng trường Ba Đình, đã khẳng định hùng hồn bằng mắt
thấy, tay sờ, người Việt Nam từng làm chủ khoa học và nghệ thuật xây
dựng đô thị.
Trên một diện tích khiêm tốn 19.000m2, một góc cung điện của kinh đô
xưa cũ, hé lộ một không gian đô thị tầm cỡ, một trình độ nghệ thuật chế
tác vật liệu bậc thầy, công trình xây cất chồng lên nhau trong hơn mười
ba thế kỷ, làm sửng sốt không chỉ chúng ta, mà còn làm ngạc nhiên cả
với nhiều nhà chuyên môn thế giới.
Những phát lộ vừa qua cho thấy, với cảm xúc thi ca lai láng, năng
lực sáng tạo tràn trề, nhiều thế hệ người Việt cần lao, đã từng xây
dựng trên một dải giang sơn của mình một hệ thống đô thị quy mô, hoành
tráng, đầy trí tuệ và giàu chất thi ca, ở trình độ nghệ thuật cao, tồn
tại qua nhiều thời đại.
Tiếc thay, mà cũng đau đớn thay, gần như toàn bộ khối gia sản
khổng lồ và quý giá đó đã bị người Pháp triệt hạ. Trong khoảng năm mươi
lăm năm tính từ 1884 đến trước Chiến tranh thế giới lần thứ II - 1939 -
trừ kinh đô Phú Xuân - các thành cổ Hà Nội, Gia Định và hầu như toàn bộ
hệ thống đô thị của người Việt đều bị san bằng không còn dấu tích,
nhường chỗ cho một hệ thống thành phố kiểu thuộc địa, phục vụ cho nhóm
quan lại của chế độ thực dân và bộ máy cai trị thuộc địa.
Như vậy là cả một hệ thống đô thị truyền thống của người Việt không
những biến mất khỏi mặt đất mà còn biến luôn khỏi ký ức cộng đồng!
Những phường thợ khéo, những thợ ngoã, thợ hồ theo bác thợ cả, thước
tầm trong tay, từng xây chùa Dâu, chùa Trăm gian, đình Thổ Tang, đình
Chu Quyến, đình Hương Canh, tháp Bình Sơn... phải chuyển nghề, phá
thành Hà Nội để xây phố Tây. Cùng với họ, nhiều làng nghề truyền thống
cũng biến mất! Đấy là lý do tại sao chúng ta và cả thế giới, năm 2003
đều sửng sốt, ngạc nhiên khi ngành khảo cổ hé lộ cho chúng ta một góc
kho báu nghìn năm của tổ tiên ngay dưới chân ta, và hài hước thay, ngay
giữa trung tâm Hà Nội nghìn năm văn vật!
Rất có thể là quá sớm khi nhận định, truyền thống Việt không xây nhà
quá cao, không xây thành phố quá lớn (cũng rất có thể vì kinh tế chưa
phát triển đủ tầm và vật liệu cũng như kỹ thuật không cho phép), nhưng
quy mô công trình và kích cỡ đô thị của người Việt bao giờ cũng hòa
trong thiên nhiên, tồn tại cùng thiên nhiên, "Thiên - Địa - Nhân" hoà
hợp trong cùng một tổng thể. Đấy là đặc điểm thấy rõ khi so sánh văn
minh phương Đông với văn minh phương Tây, đặc điểm đô thị châu Âu và đô
thị Việt.
Tóm lại, nếu coi 1990 là năm thực sự khởi đầu cho công cuộc đô thị
hoá đúng nghĩa, tính ngược về quá khứ, 1884, năm ký Hoà ước Patenôtre,
người Việt Nam mất quyền xây cất đô thị trong 106 năm, còn tính tới
1859, năm người Pháp san bằng thành Gia Định để xây Sài Gòn là 116 năm.
Hơn một thế kỷ, ở nhờ người ta, ăn cơm người ta, học chữ người ta,
như con chim bị nhốt trong lồng, mất thói quen vỗ cánh và cảm hứng bay
lượn trong trời xanh là điều không khó giải thích. Chả thế, khi trình
bày trước Thường vụ Quốc hội, xin thông qua Luật Quy hoạch, được hỏi:
"Bản sắc đô thị Việt Nam là gì?" Bộ trưởng Xây dựng khi đó đã trả lời
rất thật: "Cái này thì chịu!".
(Theo Tuanvietnam.net)