Văn học là chứng minh thư của nền văn hóa
Theo ông, Hội nghị dịch thuật và quảng bá văn học Việt Nam 2010 có ý nghĩa nhất ở điểm nào?
–
Trong các loại hình nghệ thuật thì nghệ thuật văn chương vẫn dễ phổ cập
nhất. Vì văn chương sử dụng chữ viết. Mà so với các phương tiện biểu
đạt của các loại nghệ thuật khác thì con chữ là đi được xa nhất, sâu
rộng nhất vào lòng nhân loại. Các nước phát triển đều muốn mở rộng văn
hóa nước mình ra các cộng đồng khác, mà văn học chẳng khác gì tấm chứng
minh thư của một nền văn hóa.
Lấy ngay một tác phẩm văn học của nước ta đã nổi tiếng trên thế giới thì rõ. Đó là cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”
của nhà văn Bảo Ninh. Cuốn này đã được dịch ra khoảng mười thứ tiếng,
chủ yếu căn cứ vào bản dịch tiếng Anh, và được độc giả các nước đọc
nhiều, đánh giá cao. Vì sao? Thứ nhất là vì độc giả được nhìn cuộc
chiến tranh ở một góc nhìn khác, thứ hai là lối văn của anh ấy rất
quyến rũ. Tôi đã đọc rất nhiều bài của các báo nước ngoài viết về cuốn
tiểu thuyết của Bảo Ninh, tất cả đều viết về lối văn ám ảnh, dù là qua
bản dịch nhưng vẫn ám ảnh độc giả, ám ảnh các cựu chiến binh.
Các
sách của Nguyễn Huy Thiệp cũng đã được dịch khá nhiều ra mấy thứ tiếng,
và có tiếng vang rộng lớn. Như vậy Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp đã đạt
tới tầm cỡ của các đại sứ văn hóa. Nhiều khách nước ngoài tới Việt Nam
đều muốn được gặp hai nhà văn này. Đó là điều văn học đã làm được cho
văn hóa Việt Nam. Có những nhà văn như thế, có những bản dịch như thế,
văn học Việt Nam không ngại xuất ngoại, có thể hiên ngang sánh vai các
nền văn học khác.
Ở
ta từ trước đến giờ, hình như chưa hề có chiến lược giới thiệu văn học
Việt Nam ra nước ngoài cho có hệ thống, bài bản. Văn học Việt Nam trước
đây được giới thiệu ra ngoại quốc là nằm trong chính sách ngoại giao
thời chiến, nặng về mặt chính trị, tư tưởng. Bây giờ tổ chức Hội nghị
dịch thuật và quảng bá văn học trong một đường hướng lâu dài là giới
thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, để thế giới biết Việt Nam là một
quốc gia, một dân tộc, có lịch sử và truyền thống lâu đời, chứ Việt Nam
không phải là một cuộc chiến tranh, thì quá đúng rồi.
Nhưng
ta phải làm sao đây? Ta sẽ đưa cái gì ra giới thiệu cho người, ta phải
tổ chức công việc như thế nào để cái ta đưa ra người ngoài đọc sẽ nhận
ra ta, hiểu ta, muốn tìm hiểu ta? Vấn đề là ở đấy.
Cần
một cuộc tổng kiểm kê đánh giá lại việc dịch văn học Việt Nam. Chúng ta
có gì để đưa ra cho bạn bè thế giới trong dịp này? Liệu có cập nhật
được thời sự văn học đúng như nó diễn ra không? Liệu có chắc đây không
phải chỉ là dịp để bắt tay, vỗ tay và… xoa tay hài lòng một cách rất
đại khái theo kiểu “hội nghị đã thành công rực rỡ”?
Câu hỏi chúng ta có gì quả là rất khó trả lời. Vậy theo ông, chúng ta nên giới thiệu cái gì?
-
Chúng ta có cái tật là làm cái gì cũng hay dây cà ra dây muống, mà
không tính đến thời đoạn, thời điểm. Hội nghị dịch thuật và quảng bá
văn học Việt Nam (tên chính thức còn chưa được công bố) mở ra vào năm
cuối thập niên đầu thế kỷ XXI, thì phải bắt đầu từ hiện tại đó. Tập
trung vào văn học hiện đại, mà cụ thể hơn nữa là văn học thời đổi mới.
Chứ cứ dắt dây, bảo là phải có văn học cổ điển ư, phải có văn học chống
Pháp, chống Mỹ ư..., thì bày ra lắm món rồi tản mạn, không chắc được
món nào.
Văn
học cổ điển Truyện Kiều đã có dịch, thơ Nguyễn Trãi đã có dịch, thơ Hồ
Xuân Hương đã có dịch, thơ Lý Trần đã có dịch, rồi sẽ còn phải dịch
nữa, nhưng là về lâu về dài. Văn học hiện đại Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,
Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận... đã có dịch. Trong
văn học hiện đại thì mảng viết chiến tranh trước đây có một số tác phẩm
đã được dịch, chủ yếu ở mấy nước xã hội chủ nghĩa.
Vì
vậy chắc chắn là ở thời điểm này, theo tôi, cần nên tập trung giới
thiệu văn học đương đại. Đó là một đời sống văn học đang diễn ra, đang
cập nhật, đang hội nhập, có tương quan so sánh được với văn học thế
giới hiện nay. Nhìn sang văn học nước ngoài được dịch vào Việt Nam thì
thấy. Hầu hết các tác phẩm văn học đều là của hôm nay, bây giờ. Vấn đề
đặt ra là phải tổ chức lựa chọn, giới thiệu và dịch thuật thế nào để
bức tranh văn học Việt Nam thời mới hiện ra trước mắt người đọc nước
ngoài được phong phú, đa dạng, phản chiếu đúng diện mạo như nó có. Và
phải là văn chương thực sự.
Được
biết trong năm nay ông vừa cùng Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây
(TTĐT) tham gia dịch một tập thơ của Thụy Điển ra tiếng Việt. Từ công
việc đó, ông thấy có kinh nghiệm gì có thể giúp ích cho việc dịch văn
học Việt Nam ra nước ngoài?
-
Tôi thấy cách làm của phía Thụy Điển rất hay, ta có thể học hỏi được.
Nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Thụy Điển - Việt Nam
(1969 – 2009), trong các hoạt động kỷ niệm chào mừng giữa hai nước,
phía bạn đề nghị Bộ VH, TT&DL ta dịch và giới thiệu một tập thơ
Thụy Điển. Phía Thụy Điển đã làm một tuyển tập thơ nước họ thế kỷ XX
rất công phu, kỹ càng, đã được dịch ra tiếng Anh. TTĐT “trúng thầu” vụ
dịch này và đã tập hợp được một đội ngũ dịch giả tiếng Anh có uy tín,
kinh nghiệm. Trong vòng hai tháng dịch xong, in thành một cuốn thơ Thụy
Điển bằng tiếng tiếng Việt sang trọng, đón đoàn nhà thơ Thụy Điển sang
ra mắt sách, giao lưu ở Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Sau
đó, TTĐT đã thương lượng được với phía Thụy Điển dịch một tuyển thơ
đương đại Việt Nam ra tiếng Thụy Điển và xuất bản ở Stockholm. TTĐT đã
nhờ tôi chọn thơ, bản thảo đã chọn xong, các bài được chọn đều sẽ có
bản dịch tiếng Anh, từ đó các dịch giả Thụy Điển sẽ dịch ra tiếng nước
họ.
Hiến kế cho hội nghị dịch thuật văn học Việt
Từ
những kinh nghiệm lâu năm của một dịch giả và là người theo sát đời
sống văn học với con mắt của nhà phê bình, ông “hiến kế” gì cho các nhà
tổ chức hội nghị?
-
Thứ nhất, mời được những dịch giả đích đáng, cả các dịch giả nước ngoài
và dịch giả người Việt. Như trường hợp nhà thơ dịch giả Nguyễn Đỗ sống
tại Mỹ cùng nhà thơ dịch giả Paul Houver đã rất có công dịch, giới
thiệu, quảng bá thơ Việt Nam ở Mỹ. Họ đã dịch thơ Nguyễn Trãi, thơ các
nhà thơ hiện đại Việt Nam, và công việc của họ đang gây được chú ý của
giới xuất bản và độc giả Mỹ.
Thứ
hai, có bản kiểm kê văn học Việt Nam dịch ra nước ngoài từ trước đến
nay, in bằng tiếng Việt và tiếng Anh, đưa cho các dịch giả để họ nắm
được tổng quát tình hình ở khu vực hoạt động này: những tác phẩm nào đã
dịch, dịch ra những tiếng nào, tác giả nào được dịch nhiều. Đây là tài
liệu quan trọng nhất thiết phải có để các dịch giả nước ngoài làm căn
cứ cho sự lựa chọn của mình, cũng như để họ biết nguồn tham khảo khi
dịch.
Thứ
ba, giới thiệu và đề nghị các dịch giả nước ngoài dịch ba tác giả: Vũ
Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử, Nam Cao. Đặc biệt tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ
Trọng Phụng đã có bản dịch tiếng Anh rất thành công của Peter Zinoman
và Nguyệt Cầm in ở Mỹ năm 2007. Thơ Hàn Mặc Tử đã có tập tuyển “Vỹ Dạ”
dịch ra tiếng Pháp. Truyện ngắn Nam Cao cũng đã có một tuyển tập in
bằng tiếng Pháp. Tôi nói bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp vì đây là hai
thứ tiếng phổ cập, và vì các dịch giả nước ngoài dịch từ tiếng Việt,
nhưng cũng có khi chỉ dịch từ một thứ tiếng khác. Như Jan
Ristarp trong đoàn Thụy Điển sang Việt Nam vừa rồi, ông là dịch giả
tiếng Anh và tiếng Pháp, đọc thấy tiểu thuyết của Ma Văn Kháng và Hồ
Anh Thái qua bản dịch tiếng Anh thấy thích, thế là chuyển dịch sang
tiếng Thụy Điển luôn.
Thứ
tư, giới thiệu những ấn bản dịch đã có của văn học Việt Nam ra các thứ
tiếng, nhất là tiếng Anh. Thí dụ thơ Hồ Xuân Hương qua bản dịch của
John Balaban, cuốn “Số đỏ” đã nói trên; các tuyển truyện “The Other
Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writes”,
“Love after War”, tuyển thơ “Black Dog, Black Night: Contemporary
Vietnamese Poetry”, “Vietnamese Feminist Poems from Antiquity to
Present”...; các tác phẩm của một số nhà văn đã được dịch: Bảo Ninh,
Nguyễn Huy Thiệp, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Lê Minh Khuê, Nguyễn
Quang Thiều, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thân...
Thứ
năm, tiến hành cuộc giao lưu tiếp xúc rộng rãi giữa các dịch giả dự hội
nghị và các nhà văn nhà thơ Việt Nam ở Hà Nội và cả nước nếu biết hội
nghị này có nhu cầu gặp mặt, để tự giới thiệu, tự quảng bá. Thời gian gần đây, nhiều
nhà thơ của chúng ta cũng đã có ý thức tự giới thiệu mình bằng cách in
các tập thơ song ngữ Việt – Anh để tiếp xúc với bạn bè thế giới. Hội
nghị này là một cơ hội tốt cho họ, không nên hẹp hòi, giới hạn, chỉ
khuôn trong hội trường, hay tốn thời gian vào những thù tiếp nghi thức,
xã giao. Hãy cứ để rộng mở không gian cho những tiếp xúc, gặp gỡ, trao
đổi, đặt hàng giữa các nhà văn trong nước và các dịch giả nước ngoài
trong và sau hội nghị.
Tôi
không nói đến việc in các tuyển văn, tuyển thơ nhân dịp này để tặng các
đại biểu vì đó là thông lệ ta hay làm. Thực ra, mấy ý nêu trên vẫn đang
là ở cái thế ta phải ăn đong, ăn nhờ, có khi ăn chịu nữa. Nghĩa là vẫn
thụ động. Về lâu về dài, ta phải chủ động trong việc này. Văn học của
ta mà ta không biết cách tự giới thiệu, quảng bá thì trách sao được
người ngoài không biết! Tương lai Hội Nhà văn Việt Nam phải phối hợp
với Bộ VH,TT&DL, Bộ Ngoại giao để có chiến lược lâu dài chủ động
đưa văn học Việt Nam ra nước ngoài. Phải
tổ chức đồng bộ, bài bản, phải có được những bản dịch của mình để mở
đường. Trong tinh thần đó, tạp chí “Văn chương Việt Nam” xuất bản bằng
tiếng Anh cần được bù lỗ và duy trì, và phải tìm cách sao cho nó tồn
tại và phát triển được trên thế giới.
Sau
này, cần phải có các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, các tùy
viên văn hóa phải được phổ biến thông tin và nắm được các nét phát
triển của đời sống văn hóa, văn học. Họ không thể chuyên sâu như người
làm văn hóa chuyên nghiệp nhưng họ phải hiểu biết về văn hóa để trở
thành một kênh thông tin đưa văn hóa, văn học Việt Nam ra nước ngoài.
Một số trung tâm văn hóa và đại sứ quán các nước ở Hà Nội đã từng mời
nhà văn nước họ sang Việt Nam giao lưu, còn như các đại sứ quán ta ở
nước ngoài thì chưa có hoạt động này. Chưa có thì nên có, nên làm.
Hội
nghị này là một cơ hội tốt nhưng không nên hình thức, lễ lạt, kéo đi
chơi chỗ nọ chỗ kia. Chủ nhà và khách hãy ngồi vào bàn thảo luận cùng
nhau: làm thế nào để đưa được văn học Việt Nam ra nước ngoài có kết
quả. Hãy nói thẳng vào vấn đề: Chúng tôi cần dịch văn học Việt Nam ra
nước ngoài, đề nghị các bạn hỗ trợ và hợp tác. Nó giống như một hội
nghị khách hàng ấy, phải đi sâu vào công tác dịch thuật và xúc tiến
thương mại văn học, đưa ra những điều kiện ưu đãi, tìm hướng đặt hàng
cả dịch giả ta lẫn dịch giả bạn. Chứ không phải kiểu “bày bới ra”, cái
gì cũng đặt lên mâm nhưng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Dành nhiều
thời gian cho các dịch giả phát biểu ý kiến và hiến kế, xem họ nhận xét
thế nào, cần gì, làm cách nào…
Cần ghi nhận bằng cách trao giải thưởng
Theo
ông, việc làm nào sẽ là thiết thực nhất khiến các dịch giả hào hứng và
vinh dự góp công góp sức cho tiến trình quảng bá văn học Việt Nam?
- Tôi
nghĩ đến một giải thưởng dịch văn học Việt Nam. Trong nước hàng năm Hội
Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội đều xét trao giải thưởng dịch văn
học nước ngoài, căn cứ vào tác phẩm được chọn dịch và chất lượng bản
dịch. Cũng như vậy, hàng năm hoặc vài ba năm một lần, một cơ quan nào
đó trong nước, có thể là Hội Nhà văn Việt Nam, được phép của chính phủ
xét trao thưởng cho một hoặc một số dịch giả nước ngoài đã có bản dịch
hay tác phẩm văn học Việt Nam hoặc có sự nghiệp dịch văn học Việt Nam
nổi tiếng, được đánh giá cao ở nước đó.
Giải
thưởng này cần có tên gọi chính thức, có quy chế hẳn hoi, và được trao
thưởng long trọng, đàng hoàng. Giá trị tiền bạc có thể không phải đã
lớn, nhưng vinh dự thì phải cao. Tôi hình dung, giải thưởng dịch văn
học Việt Nam khi đã được xét và quyết định, sẽ được thông báo cho dịch
giả được giải, mời họ sang Việt Nam nhận, hoặc được ủy quyền cho đại sứ
quán Việt Nam tại nước sở tại trao thưởng, người được giải sẽ nhận một
tấm bằng ghi nhận, một tấm ngân phiếu, và sẽ đọc một bài phát biểu nhận
thưởng. Một giải thưởng như thế tôi tin sẽ có tác dụng nâng cao vị thế
của văn học Việt Nam trên trường quốc tế.
Nếu
từ nay đến khi tổ chức hội nghị, đề xuất này của tôi được chấp nhận,
giải thưởng dịch văn học Việt Nam được lập ra và xét trao, tôi xin đề
cử hai trường hợp. Một là bà Kato Sakae, dịch giả Nhật Bản, người có
công rất lớn đưa văn học Việt Nam tới công chúng xứ anh đào, và được
độc giả Nhật Bản rất tín nhiệm qua các bản dịch. Thứ hai là giáo sư
Peter Zinoman cùng vợ là Nguyễn Nguyệt Cầm ở Mỹ, người đã cùng vợ dịch
“Số đỏ” sang tiếng Anh (2002), bản dịch được báo Los Angeles Times xếp
vào danh sách 50 tác phẩm hay nhất trong năm ở Mỹ.
Cũng
cần thông qua cộng đồng người Việt ở nước ngoài, họ là những cầu nối
văn hóa, nhờ am hiểu ngoại ngữ, phong tục tập quán nơi định cư, tha
thiết với quê hương, nhờ có không gian tiếp xúc văn hóa rộng, nên khi
có kế hoạch và chính sách rõ ràng thì tôi tin họ sẵn lòng hợp tác cùng
trong nước để chuyển tải văn học Việt Nam tới người đọc thế giới.
(Theo Vietnamnet.vn)