Xuất hiện đều đặn trên các báo, nhất là báo Hànộimới, những bài viết súc tích về văn hóa vật thể và phi vật thể ở Thủ đô của tác giả Trần Văn Mỹ luôn mang đến những phát hiện, những cái mới mà mọi người quan tâm. Nhìn lại "cái vốn" đã công bố quả cũng không ít, nên anh đã tập hợp lại một phần, chỉnh lý, sửa chữa, hoàn thiện tạo thành cuốn "Hà Nội văn vật" (NXB Văn hóa thông tin) vừa ra mắt bạn đọc Thủ đô.
Hơn
500 trang sách được chia làm hai mục: "Di tích" và "Văn vật" khá nhất
quán. Ngoài ra, để người đọc dễ tìm, mục "Di tích" còn được anh phân
loại bài cụ thể theo các phần: làng, đình, chùa, đền - điện, miếu,
thành trì, phố và ngõ. Đây không phải là cuốn sách giới thiệu toàn bộ
các di tích xếp hạng của Hà Nội như sách của các tác giả khác đã làm.
Anh viết theo cảm nghĩ về giá trị mà mình thấy ở các di tích - nơi anh
đã đến, trực tiếp "nghe", "nhìn", thẩm định. Bởi vậy, có thể gặp một
đền, miếu, chùa, đình nào đó chưa được xếp hạng song vẫn được anh giới
thiệu.
Sách
cho ta biết thêm ở nội thành có hai đền Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng, một
đền nhỏ ở nơi gốc gác ngoài đê và đền lớn di chuyển vào ở trong đê,
cạnh hồ Hương Viên bây giờ. Nhưng vẫn còn một làng Đồng Nhân nữa ở bên
kia sông Hồng thuộc xã Hải Bối, Đông Anh. Đình làng này thờ Xà Nương,
nữ tướng của Hai Bà Trưng. Cũng như vậy, tác giả cung cấp cho người đọc
nhiều điều về Hà Nội rất thú vị. Có hai pho tượng Trấn Vũ ở đền Quán
Thánh và đền làng Cự Linh (nay thuộc phường Thạch Bàn, Long Biên); cuốn
sách đồng quý hiếm ghi thần tích làng Mai Phúc (nay thuộc phường Gia
Thụy, Long Biên); tấm bia đồng ở đình Quan Nhân (phường Nhân Chính,
Thanh Xuân); bia gỗ có niên đại 1626 ở chùa Triệu Xuyên (xã Long Xuyên,
Phúc Thọ)…
Có
những điều mà chắc nhiều người Hà Nội còn chưa biết, như ở đâu còn
những chiếc giếng cổ; hai quả chuông đồng cổ nhất đúc từ thời thuộc
Đường và còn mang địa danh là huyện Giao Chỉ nay lưu giữ ở đâu; làng
Đại Lan không chỉ có hai tiến sĩ ghi danh trong sách "Các nhà khoa bảng
Việt Nam" (Nguyễn Như Đổ, Nguyễn Như Huân) mà còn có 5 tiến sĩ nữa đều
đỗ đại khoa vào triều Lê; có một đền thờ Lý Chiêu Hoàng ở quê ngoại vua
Lý Thái Tổ…
Điều
đáng quý ở tác giả Trần Văn Mỹ là đi đến đâu anh cũng tìm hiểu cặn kẽ
các di vật mới viết, nên thông tin có độ tin cậy cao. Tuy vùng Xứ Đoài
và Sơn Nam mới hợp nhất vào Hà Nội, sách cũng đã kịp thời có bài viết
về làng Bình Vọng, Canh Hoạch, Đa Sĩ, Lai Xá, La Dương, Tế Tiêu, Bình
Đà; về đình Hạ Thái, đình So; về đền Hát Môn, đền Lộ; về Thành cổ Sơn
Tây, núi Tản…
Tuy
nhiên, có bài viết chưa đầy đủ lắm về giá trị của vùng đất được miêu
tả. Thí dụ bài: "Tế Tiêu - làng cổ bên sông Đáy", tác giả đã để sót giá
trị văn hóa của nghệ thuật rối cạn khá nổi tiếng của làng. Hay như với
tiêu đề sách "Hà Nội văn vật" đã khoanh vùng, có lẽ không nên đưa thêm
các bài viết về đền vua Đinh ở Tam Dương (Nam Định), chùa Tiêu Sơn và
Đại Lãm Sơn thuộc Bắc Ninh, mà nên dành cho một cuốn sách khác. Song
đây là một tập tư liệu có giá trị rất nên đọc và tham khảo, nhất là
trong lúc chúng ta đang muốn tìm hiểu thêm về những vấn đề chưa rõ của
Thủ đô nghìn năm tuổi.
(Theo Hanoimoi.com.vn)