Những vọng âm từ 'Tỳ bà hành'
Chỉ cần nhìn vào sự kiện bản dịch Việt
ngữ của tác phẩm này đã trở thành ngón nghề tủ của hầu hết các đào
nương ca trù danh tiếng, và là tiết mục gần như không thể vắng mặt
trong những cuộc “chát tom tom chát” tự cổ chí kim là đủ rõ. Nhưng
không chỉ có vậy, ở vị trí một danh tác của văn chương cổ Trung Hoa, Tỳ bà hành
còn, trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo ra từ nó một phổ hệ những bài thơ có
chung dạng thức Đàn - Trăng - Nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách/ Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu...” - ngay từ những câu đầu tiên, Tỳ bà hành
đã phác ra một bối cảnh không - thời gian đặc định: mùa thu, đêm, bến
sông vắng. Trên bối cảnh ấy, đã diễn ra cuộc tao ngộ “bình thủy tương
phùng” giữa hai kẻ tồn tại “bên lề”: một ông quan - nghệ sĩ bị biếm
trích và một ca kỹ ở buổi hoàng hôn của nghề nghiệp. Như thế, và chỉ
cần môtíp như thế là đã quá đủ để các nhà thơ lãng mạn Việt Nam, những
người luôn sống với cảm thức tiền định rằng thế giới này là Tôi và phần
còn lại, lấy đó làm môtíp chủ đề cho những biến tấu thi ca của mình. Vũ
Hoàng Chương, người thơ tự nhận mình là một cá nhân thuộc về những kẻ
“bị quê hương ruồng bỏ giống loài khinh” và những kẻ “đầu thai nhầm thế
kỷ”, chỉ cần một đêm trăng cắm thuyền trên sông lạ là đã ngay lập tức
sống trong nỗi sầu Tầm Dương: “Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ/ Trăng
thượng tuần cao sáng ngập bờ/ Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi/ Nghe hồn
ly phụ khóc trên tơ/... Cánh rượu thu gần vạn dặm khơi/ Nẻo say hư thực
bóng muôn đời/ Ai đem xáo trộn sầu kim cổ/ Trăng nước Đà giang mộng
Liêu trai” (Đà giang).:
“Đè theo đôi tiếng tỳ hư ảo/ Dâng tới thuyền ai ngủ bến không”, không
khó lắm để chúng ta nhận ra ngọn nguồn xa xôi của nó là một ý thơ trong
bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế: “Cô Tô thành ngoại Hàn
San tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” (Chùa Hàn Sơn nằm ở ngoài
thành Cô Tô, nửa đêm tiếng chuông tìm đến với khách trên thuyền). Tuy
vậy, điều đó chỉ là thứ yếu, căn bản thì lực hướng tâm của Đà giang vẫn là Tỳ bà hành. Không chỉ bởi trong bài Đà giang
tác giả đã hai lần nhắc đến từ Tầm Dương, mà chính là bởi sự thể hiện
của cái dạng thức Đàn - Trăng - Nước ở đó. Một sự thể hiện rất đặc
biệt. Có Trăng, có Nước, Trăng thật và Nước thật (Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ/ Trăng thượng tuần cao sáng ngập bờ)Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi/ Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ).
Một thứ “đồng thanh tương ứng” giữa những kẻ mang căn bệnh “u uất nỗi
chơ vơ”, cho dẫu họ không cùng thời đại, không cùng chủng tộc. Vậy nên
câu hỏi ở cuối bài (Ai đem xáo trộn sầu kim cổ/ Trăng nước Đà giang mộng Liêu trai) xuất hiện như là một câu hỏi không cần có câu trả lời. Trong thi phẩm này, ở hai câu nhưng Đàn thì chỉ là âm thanh trong vọng tưởng, âm thanh như từ tiền kiếp đã chờ sẵn để dội vào hồn thi nhân (
Nếu Vũ Hoàng Chương bắc một nhịp cầu đến bến Tầm Dương từ Đà giang, thì nhịp cầu ấy của Văn Cao lại được bắc từ Hương giang. Điểm khác biệt cơ bản giữa Đà giang và Một đêm đàn lạnh trên sông Huế là ở chỗ: Đà giang là tiếng nói độc thoại, cho mình, Đà giang không có tiếng đàn thực vì hoàn toàn thiếu vắng người chơi đàn; còn Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
là tiếng nói hướng tới một người nghe, tiếng đàn ở đây là tiếng đàn có
thực vì có người chơi thực, và đó là sự hoán vị nếu so với Tỳ bà hành: người chơi đàn là chủ thể xưng Tôi, chứ không phải là người kỹ nữ như trong Tỳ bà hành. Tuy thế, thật thú vị khi, giống như Đà giang, trong Một đêm đàn lạnh trên sông HuếTrăng tà chiếc quạ kêu sương/ Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ).
Trong bài thơ của Văn Cao, người đọc có thể nhận thấy rất rõ dấu ấn của
cái chủ ý tạo nên tính nhạc bằng thủ pháp láy từ, láy câu (các từ trong
câu đều là thanh bằng). Hãy thử đọc những câu: “Nẩy nẩy tơ đồng nhịp
nhịp đôi/ Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi/ Này em hát khúc tương tư
nhé/ Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời/ Sao đàn u hoài gì mùa thu?/ Sao đàn u
hoài gì mùa thu?/ Tri âm nghe thử dây đồng vọng/ Lạc lõng đêm vàng khi
nhạc ru” ta sẽ cảm nhận được cái miên man sông nước, cái dư âm như bất
tận của giọng ca Huế trên sông Hương. Nhưng quan trọng hơn, bài thơ là
dấu ấn của tình tri kỷ được hình thành qua âm nhạc, một cuộc tao ngộ
khiến cho song phương, người đàn người hát, cơ hồ quên cả thời gian và
không gian: “Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha/ Em nghe anh dạo khúc thu xa/
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ/ Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà...” Bởi
thế mà giờ phút chia tay diễn ra đầy lưu luyến: “Em cạn lời thôi anh
dứt nhạc/ Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh/ Một đêm đàn lạnh trên sông
Huế/ Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh”. Nỗi sầu biệt ly như đã từ người mà
ngấm vào đàn vào phách. Nỗi sầu ấy còn như kéo dài qua mười mấy thế kỷ
đằng đẵng, từ “Giang Châu tư mã đượm màu áo xanh” trong thơ của Bạch Cư
Dị đến người mang “vạt áo xanh” trong thơ của Văn Cao.
xuất hiện những câu phảng phất vị của Phong Kiều dạ bạc. Đọc hai câu:
“Tà tà trăng lặn hiu hiu gió/ Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi” hẳn là
người ta phải nhớ đến hai câu của Trương Kế: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn
thiên/ Giang phong ngư hỏa đối sầu miên” (Tản Đà dịch tuyệt hay:
Nói đến phổ hệ những thi phẩm Việt Nam có chung dạng thức Đàn – Trăng - Nước có thể được quy chiếu vào “mẫu gốc” là bài thơ Tỳ bà hành, tất phải nói đến Nguyệt cầm
của Xuân Diệu: “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh/ Trăng thương,
trăng nhớ, hỡi trăng ngần/ Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm/ Mỗi giọt
rơi tàn như lệ ngân/... Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê/ Chiếc đảo hồn tôi
rợn bốn bề/ Sương bạc làm thinh, khuya nín thở/ Nghe sầu âm nhạc đến
sao Khuê”. Nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học đã viết về thi phẩm
này và đã chú ý đến tính chất “lạ” của nó. Hoài Thanh nói đến “cái xôn
xao gửi vào những hàng chữ lạ lùng này”. Với câu: “Vì nghe nương tử
trong câu hát/ Đã chết đêm rằm theo nước xanh”, Hoàng Ngọc Hiến thú
nhận “vẫn chưa hiểu câu thơ này, nhưng càng ngày càng thấy hay”... Có
thể nói, Nguyệt cầm, trong phổ hệ Đàn - Trăng - Nước, là thi phẩm ít “dính líu” đến Tỳ bà hành nhất, cho dẫu có một lần chữ Tầm Dương được nhắc đến (Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người). Nguồn cảm hứng ở Nguyệt cầm
không phải là mối quan hệ tri kỷ giữa những kẻ “bên lề” hay nỗi sầu ly
biệt sau một đêm trăng nghe đàn trên sông, mà là bản thân âm nhạc, là
nhạc cảm, là “sầu âm nhạc” - như chính cụm từ Xuân Diệu đã sử dụng
trong bài. Đặt cạnh các bài thơ của Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Văn Cao,
thì đây là một biến tấu rất xa trên chủ đề chung.
Trong bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca in ở đầu thi tuyển Thi nhân Việt Nam,
khi đi tìm những nguồn của Thơ Mới, Hoài Thanh đã nhận ra một nguồn
quan trọng: thơ Đường. Dấu ấn của Đường thi trên thơ ca lãng mạn Việt
Nam trước 1945 đương nhiên không chỉ là những hình thức thể loại đã trở
thành mẫu mực của nó (tập thơ Mùa cổ điển của Quách Tấn là
một ví dụ tiêu biểu), mà còn ở các hệ đề tài và ở sự gợi tứ gợi hứng
cho những biến tấu trên các hệ đề tài ấy. Phổ hệ các bài thơ có dạng
thức Đàn - Trăng - Nước xuất sinh từ Tỳ bà hành cho thấy rõ
điều đó. Có thể nói, đó chính là những vọng âm Việt Nam từ một bài thơ
thuộc vào hàng tuyệt phẩm của thơ ca cổ Trung Hoa. Nói chung, đây là
điều bình thường ở mối quan hệ văn học vùng, giữa một nền văn học hạt
nhân với một nền văn học vệ tinh. Điều bất bình thường chỉ là câu
chuyện của thời hiện tại, khi mà Đường thi tỏ ra không còn sức hấp dẫn
với sáng tạo của các nhà thơ Việt Nam như trước. Không phải vì Đường
thi đã “bớt” hay, mà dường như vì trong nền thơ của chúng ta, đã qua
rồi cái thế hệ những thi nhân đa văn hóa như Xuân Diệu, Vũ Hoàng
Chương, Văn Cao... những người xuất thân Tây học nhưng luôn nỗ lực với
Hán học, hiểu và yêu những giá trị của văn chương cổ.