Giá hàng hóa sụt giảm mạnh làm giảm kim ngạch xuất khẩu
Trong năm 2009, thị trường xuất khẩu nước ta chịu nhiều tác động tiêu cực. Ðó
là, do kinh tế thế giới suy thoái, các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,
châu Á - Thái Bình Dương đều giảm tiêu dùng, kéo theo giảm đơn hàng. Giá xuất
khẩu các mặt hàng đều giảm sâu. Trong 11 tháng, giá bình quân hàng nông sản giảm
làm cho xuất khẩu nhóm hàng này giảm 8,6%, trị giá xuất khẩu dầu thô giảm
41,7%, than đá giảm 11,3%... Một số nước vẫn có nhu cầu tiêu dùng nhưng bị cắt
giảm tín dụng từ các nước cung cấp tín dụng. Do cắt giảm tiêu dùng từ nhập khẩu,
các nước có xu hướng quay về khai thác tiêu dùng nội địa, làm cho hàng nước
ngoài trong đó có hàng xuất khẩu Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt tại thị
trường nước đó. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch xuất hiện dưới nhiều hình thức, nhiều
rào cản kỹ thuật được dựng lên. Vì vậy, đối với Việt Nam dù hầu hết mặt hàng
xuất khẩu đều tăng về lượng nhưng không bù nổi sự giảm giá, kéo kim ngạch xuất
khẩu giảm theo. Cụ thể, nhóm hàng nông sản và thủy sản giảm 1,05 tỷ USD (trong
đó giảm do giá 2,48 tỷ USD nhưng chỉ tăng do lượng 1,53 tỷ USD). Nhóm hàng nhiên
liệu và khoáng sản giảm 4,52 tỷ USD (giảm do giá 5,46 tỷ USD, tăng về lượng 939
triệu USD)...
Theo dự kiến, xuất khẩu năm 2009 đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so năm
2008. Muốn vậy, xuất khẩu tháng 12 cần đạt 5,1 tỷ USD. Theo Bộ Công thương, mục
tiêu này có khả năng đạt được do cơ cấu hàng xuất khẩu cả nước đang diễn biến
theo hướng tích cực. Ðó là, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đang tăng dần qua các
tháng: tháng 6 tăng 8,1% so tháng 5, tháng 9 tăng 3,5% so tháng 8, tháng 10 tăng
10,6% so tháng 9. Giá nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng so đầu quý II: Dầu
thô tăng 52,6%, than đá tăng 19,8%, hạt tiêu tăng 35,9%, hạt điều tăng 24,8%...
Một số mặt hàng vào mùa thu hoạch như thủy sản, cao-su, cà-phê... Xuất
khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính tăng mạnh do Tập đoàn Samsung bắt đầu
xuất khẩu mạnh mặt hàng này từ tháng 10.
Có thể nói, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 giảm 9,9% so năm 2008 là kết quả khả
quan, trong bối cảnh mặt bằng giá thế giới đã trở về mức cũ, không còn cao
như nửa đầu năm 2008 là khi bắt đầu khủng hoảng. Ðây là kết quả nỗ lực của cộng
đồng doanh nghiệp (DN) dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, nỗ lực của các
bộ, ngành, tác động tích cực của các gói kích thích kinh tế... Mức giảm sút kim
ngạch xuất khẩu 9,9% là thấp so với nhiều nước trong khu vực (có dự đoán cho
rằng mức giảm sút của Trung Quốc là hơn 20%, Nhật Bản gần 30%...).
Bên cạnh các giải pháp vĩ mô của Chính phủ, kết quả này cũng ghi nhận
những giải pháp cụ thể của ngành công thương trong điều hành xuất nhập khẩu nói
chung và xuất khẩu nói riêng của năm 2009. Trên cơ sở nắm bắt, theo dõi sát tình
hình, biến động thị trường thế giới khi có dấu hiệu khủng hoảng đã sớm đề xuất
với Chính phủ từ cuối quý III-2008. Từ đó, ngay từ đầu năm 2009 thực hiện một
loạt xử lý kỹ thuật rất thiết thực. Có thể kể ra việc Bộ Công thương đã
tiến hành thông tin rộng rãi và tổ chức nhiều lớp tập huấn tại nhiều địa phương
cho các DN nhằm tận dụng mức cao nhất những ưu đãi do các hiệp định khu vực mậu
dịch tự do song phương và đa phương nước ta đã ký để đẩy mạnh xuất khẩu, thúc
đẩy sớm việc ký các hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN với nhiều nước. Trong
khuôn khổ WTO, hỗ trợ DN chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, thay đổi công nghệ, tăng
tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm để được hưởng các ưu đãi về xuất xứ. Phối hợp
các hiệp hội ngành hàng, các địa phương xây dựng các chương trình xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các khu vực ít chịu tác động của
khủng hoảng. Ðẩy mạnh hỗ trợ xúc tiến thương mại thị trường trong nước, tạo điều
kiện phát triển hệ thống phân phối giúp DN xuất khẩu đứng vững trên thị trường
trong nước...
Kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu
Khủng hoảng kinh tế thế giới tác động trực tiếp đến kinh tế nước ta. Các
nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu, đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài,
khách du lịch quốc tế, kiều hối... đều giảm, gây ảnh hưởng lớn cán cân
thanh toán tổng thể, đôi lúc căng thẳng, gây áp lực lên tỷ giá hối đoái. Tuy
vậy, hoạt động nhập khẩu năm 2009 được kiểm soát tốt, bảo đảm được những cân đối
lớn, đáp ứng nhu cầu nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu cho sản xuất trong nước
và phục vụ xuất khẩu. Tiến độ nhập khẩu được kiểm soát, hạn chế tình trạng nhập
nguyên liệu, vật tư dự trữ quá mức mang tính đầu cơ như đã xảy ra với một số mặt
hàng như thép xây dựng, phân bón... năm trước. Bộ Công thương thống kê, trong 11
tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu cả nước khoảng 61,6 tỷ USD, giảm 17,9% so
cùng kỳ năm 2008. Trong đó, giá trị nhập khẩu nhóm hàng cần nhập khẩu 51 tỷ USD,
giảm 17,1% so cùng kỳ năm 2008 và chiếm tỷ trọng 82,3% kim ngạch nhập khẩu. Do
giá nhiều mặt hàng giảm sâu, cho nên kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này giảm 10,5
tỷ USD so cùng kỳ (giảm do giá 14,2 tỷ USD và giảm do lượng 3,7 tỷ USD). Nhóm
hàng cần kiểm soát đạt 5,17 tỷ USD, giảm 37,3% so cùng kỳ và chiếm tỷ trọng 8,9%
kim ngạch nhập khẩu.
Nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu đạt 5,45 tỷ USD, tăng 2,3% so cùng kỳ
và chiếm tỷ trọng 8,8% kim ngạch nhập khẩu. Trong vài tháng gần đây, nhập khẩu
hàng tiêu dùng có tốc độ tăng hơn, trong 11 tháng tăng 7,6% so cùng kỳ năm 2008
(thấp hơn nhiều mức tăng tương ứng cùng kỳ năm 2008 so 2007 là 51,5%).
Nhu cầu nhập khẩu trong tháng cuối năm thường tăng cao theo quy luật (trừ năm
2008 do khủng hoảng). Kinh tế nước ta đang dần ổn định, các gói kích thích kinh
tế đang phát huy tác dụng, dẫn đến tăng nhu cầu nhập khẩu vật tư nguyên liệu.
Các DN tận dụng cơ hội từ chương trình hỗ trợ lãi suất của Chính phủ mua sắm máy
móc, thiết bị từ bên ngoài, đồng thời tận dụng cơ hội giá rẻ từ thị trường
thế giới mua công nghệ, vật liệu phục vụ sản xuất giai đoạn sau, đón chờ cơ hội
phục hồi kinh tế thế giới. Nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng vào cuối năm, Nhà
nước cho phép nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường vàng... Do vậy, Bộ Công
thương dự báo nhập khẩu cả năm 2009 vượt 68 tỷ USD, nhập siêu hơn 11,5 tỷ
USD với tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu khoảng 20,2% (tỷ lệ này năm 2008 là 28,5% và
năm 2007 là 29%).
Căn cứ trên tỷ lệ nhập khẩu nhóm hàng cần thiết (khoảng hơn 80%), nhóm hàng
cần kiểm soát nhập khẩu (hơn 10%) và nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu
(dưới 10%) cùng với tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu (20,2%) cho phép đánh giá năm 2009
chúng ta kiểm soát được nhập khẩu, kiềm chế được nhập siêu ở mức phù hợp. Nước
ta, như nhiều nước đang phát triển, đang quá trình CNH, HÐH luôn cần giữ mức
nhập siêu hợp lý do phải nhập khẩu thiết bị, máy móc cho nhu cầu trong nước và
do đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều ngành sản xuất trong nước đang
xây dựng chưa đủ khả năng sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Nhiều ngành công
nghiệp dựa trên gia công, chế biến cần nhập khẩu nguyên, phụ liệu. Quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế luôn đi cùng việc mở cửa thị trường, cắt giảm thuế, tự do
thương mại. Có thể khẳng định năm 2009, nền kinh tế Việt Nam có cán cân thương
mại theo hướng lành mạnh, tạo tiền đề tốt cho những năm tới.
Theo báo Nhân dân.