Phạm Sỹ Sáu gìn giữ khúc ca đồng đội
Những người lính tình nguyện Việt Nam cuối cùng rời
khỏi Campuchia đã hơn 20 năm. Bom đạn, mất mát và kiêu hãnh một thời,
vẫn còn in đậm trong ký ức của bao gã trai chất ngất gian lao và tự
hào, mà Phạm Sỹ Sáu là một gương mặt được nhiều người nhắc đến nhờ
những câu thơ ghi lại năm tháng khó quên.
Tôi đọc thơ Phạm Sỹ Sáu từ lâu, và đôi lần định dùng
cái tuổi trẻ sôi nổi của mình để viết về những câu thơ oi ả của anh,
nhưng lần lữa mãi chưa thực hiện được. Rồi bỗng một ngày, khi bản thân
có cảm giác sự già nua đang ám ảnh, tôi chợt thấy những tâm tình giản
dị của Phạm Sỹ Sáu thật đáng trân trọng!
Thơ Phạm Sỹ Sáu có thế mạnh ở khẩu khí, nếu đọc vang
lên trước đám đông sẽ thăng hoa vẻ đẹp hào sảng và giục giã của những
"bài hành tráng sĩ mới" rộn rã theo bước chân người lính trẻ: "Sông
Dịch nào rộng bằng sông Mê - kông / Sông Mê-kông sao bằng sóng ở trong
lòng / Ttráng sĩ chừ lên rừng biên giới / Lá thư nhà thành nỗi chờ
mong". Chính vì vậy, không chỉ có trường ca Ra đi từ thành phốĐiểm danh đồng đội
mộc mạc ngay cả lối xưng hô và chia sẻ: "Hãy sắp hàng vào cho tao điểm
danh / Những thằng lính ở miền xa rất trẻ / Hãy sắp hàng vào để nghe
tao kể / Chuyện đánh nhau và chuyện… yêu nhau / A! Có thằng nào còn
mang băng trắng trên đầu / Tiến một bước, nếu thấy còn chỗ trống / Đừng
băn khoăn nếu có thằng hy sinh và thằng…chạy trốn / Còn lại tụi mình
thì vẫn cứ thương nhau" thì cách Gửi bạn bè làm xong nghĩa vụ quân sự
cũng đầy tếu táo: "Mai mày về với người yêu trong tay / Hãy hôn dùm tao
những nụ hôn đời lính / Hãy nói dùm tao trong phút giây trầm tĩnh /
Rằng: cám ơn nàng đã yêu lính biên cương".
mà hầu hết thơ Phạm Sỹ Sáu đều có đặc tính càng dài càng thú vị. Giống
như vóc dáng đường bệ của tác giả, thơ Phạm Sỹ Sáu khá nở nang về câu
chữ và chi tiết, nhất là khi muốn thể hiện sự chân thành. Ví dụ, cách
 |
Tập thơ "Khúc ca đồng đội" của Phạm Sỹ Sáu. |
Nhìn lại lịch sử Việt Nam thế kỷ 20 thấy nặng trĩu
chiến tranh. Thi ca dự phần vào số phận dân tộc và sản sinh hàng loạt
nhà thơ mặc áo lính. Khác với những nhà thơ mặc áo lính thời chống Pháp
và chống Mỹ, những người lính tình nguyện trên đất bạn Campuchia như
Phạm Sỹ Sáu có một giọng điệu mới mẻ hơn khi xuất hiện bằng một hình
ảnh khác: "Có lớp lính vừa qua tuổi Đội viên / Llông tơ còn trên mặt /
Còn làm nũng, giận hờn rất đỗi hồn nhiên / Những đồng đội khi tham gia
trận đánh đầu tiên / Còn bật khóc khi thấy người bên cạnh mình ngã
xuống / Gặp con gái Campuchia cười tay chân còn luống cuống". Tâm trạng
chung thường gặp ở những câu thơ viết trên tuyến lửa là nhớ nhung, mong
ngóng, phập phồng, chia ly. Muốn định vị một khuôn mặt thơ, Phạm Sỹ Sáu
đã chọn được một tần số cảm xúc riêng: "Chúng tôi ở rừng như người ở
chịu / Mắc nợ thì nhiều mà trả được bao nhiêu". Cứ vin vào món "nợ" ấy,
Phạm Sỹ Sáu bồn chồn viết những câu thơ vun vén hành trang đời mình,
lúc Ở phương này lặng lẽ "Ở phương này mây từ hướng Nam /
Chiều bay lên rừng mù sương lam / Đêm anh ngồi gác trên hầm chốt / Thấy
đất nước gần ở trong tay ôm", và lúc Mùa mưa đời lính đi qua
chầm chậm: "Rừng biên giới sâu vẫn vang tiếng cười / Mà nỗi nhớ cháy
trong lòng lính trẻ / Mưa đã làm lành những con đường đất nẻ / Cho
chúng tôi chân không bì bõm lội đi tuần".
Những người khó tính rất dễ bỏ dở nửa chừng khi đọc
thơ Phạm Sỹ Sáu vì anh hay phóng bút theo ngổn ngang cảnh vật xung
quanh. Tôi cho rằng, đọc thơ Phạm Sỹ Sáu không chỉ để hiểu đời lính mà
còn để tham khảo dữ liệu chiến tranh. Trong bối cảnh mong manh giữa
sống và chết, thi ca thường mang lại nhiều thông tin chuẩn xác. Đây là
một thông tin "Có ngày không kịp nói một câu tiếng Việt / Cứ ngỡ mình
xa nước đã lâu năm". Đây cũng là một thông tin "Trăng đêm nay sáng hơn
/ Bởi nụ cười rất xinh của cô gái vừa thoát khỏi đám cưới tập trung /
Từ nay được làm người / Và được quyền làm vợ". Và đây cũng là một thông
tin "Đường phố tươi những chiếc váy hoa / Tươi gương lược phấn son một
thời quên lãng". Nhờ những thông tin chuyển tải qua thi ca, tôi và độc
giả hôm nay mới có thể thấy chặng đường những người lính tình nguyện
Việt Nam đã đi qua, từ ngày tháng cam go đến những giây phút thắng lợi.
Cầm súng và làm thơ, cả hai nhiệm vụ đều có giá trị ngang nhau đối với
một người lính như Phạm Sỹ Sáu. Anh đã phải viết hàng loạt câu lục bát
chênh vênh "kỷ niệm xôn xao" để khắc họa một "ánh mắt liếc cháy buổi
trưa", như từng trải nghiệm bao khoảnh khắc căng thẳng mới gặp được
bình yên.
Thơ Phạm Sỹ Sáu không lấp lánh bởi nghệ thuật ngôn từ
cũng không sắc sảo bởi phương pháp ẩn dụ. Phẩm chất thi sĩ của Phạm Sỹ
Sáu được bồi đắp bởi tâm hồn người lính. Với một Chùm hoa trước khi vào trận,
Phạm Sỹ Sáu viết: "Có một phút giây bình yên / Trước giờ bước vào trận
đánh / Mỗi người cảm thấy bên cạnh / Hoa đỏ nhìn mình trang nghiêm".
Hai chữ "trang nghiêm" không phải cái nhìn thường nhật cõi nhân sinh,
mà là cái nhìn định mệnh của thi ca. Không thể nói khác hơn, chính hai
chữ "trang nghiêm" của người lính đã chuyển mấy câu tường thuật đơn sơ
thành những câu thơ ấm áp!
Có người từng hào hứng nhận định: Phạm Sỹ Sáu là một
Phạm Tiến Duật của chiến trường Campuchia! Tôi không phủ nhận ý kiến
ấy, nhưng ngoài nung nấu giữ gìn khúc ca người lính, thơ Phạm Sỹ Sáu
còn chất chứa nhiều suy tư "anh hiểu nhiều về bóng đêm, nên cần ngọn
đèn soi tỏ". Đọc thơ Phạm Sỹ Sáu, luôn bắt gặp anh lính mê mải hát ca
trên những vùng đồi rình rập hiểm nguy, nhưng đôi khi cũng nhìn thấy
anh lính dằn vặt vì những được mất không của riêng mình: "Những người
lính vào rừng tìm tượng Phật cho dân / Máu vẫn đổ cho chuông chùa ngân
vang trầm quyện". Ở những góc khuất trống vắng, Phạm Sỹ Sáu thả những ý
nghĩ bay thật xa giúp thơ anh có thêm chiều kích: "Cuộc sống nổi trôi
với bao điều nghiệt ngã, dễ vượt qua hơn hiểu một nụ cười / Đêm xôn xao
khi tiếng súng vọng góc trời / Trong bóng tối chợt thấy Bay-on cười
rạng rỡ".
Mặc áo lính năm 21 tuổi, từ mùa xuân 1977 đến nay,
Phạm Sỹ Sáu đã tích lũy được hàng trăm câu thơ ân nghĩa với đồng đội,
với thời cuộc, nhưng dấu ấn của anh vẫn nằm ở những câu thơ viết trên
xứ sở chùa tháp những ngày tình nguyện: "Chắc đất nước Khơ-me từ nghìn
xưa đã ấm no / Nên hàng nghìn Áp-xa-ra trong đền không cô nào yếu ốm /
Bất chợt tôi nghĩ đến nàng Hai, cô Tám / Chỉ sống trong dân gian, không
được ở đền đài / Chưa có phù điêu tạc dáng những chàng trai / Đi giữ
nước mà trong lòng - nhớ nước / Bao thế hệ hành quân ra phía trước / Có
thế hệ nào giữ- nước-từ-xa không? / Câu hỏi làm tôi thổn thức nỗi lòng
/ Càng thổn thức khi đứng trước đền Ăng-ko-vát".
Sở dĩ tôi tin những câu thơ này tiêu biểu nhất cho
Phạm Sỹ Sáu vì thi ca chỉ bùng nổ khi người viết biết phân vân giữa cái
phổ quát và cái khác biệt vừa trừu tượng vừa mệt mỏi, để từ đó cất lên
tiếng nói gan ruột "Thành phố mình dư nhiều bài hát bâng quơ / Mà thiếu
một khúc ca vinh danh người quả phụ".
(Theo Evan.vnexpress.net)