"Đảng là đạo đức, là văn minh"
LTS: 3/2/2010,
Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 80 tuổi. Đảng Cộng sản Việt Nam (trước đây
là Đảng Lao động Việt Nam) đã trải qua những chặng đường lịch sử hết
sức vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Ngày nay, sứ mệnh lịch sử đang đặt trên vai Đảng : là chính Đảng
duy nhất lãnh đạo đưa đất nước lên một tầm cao mới, một nước Việt Nam
"hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Chỉ như vậy, Đảng
mới xứng đáng với niềm tin của dân tộc - người đã nuôi dưỡng, xây dựng
và bảo vệ Đảng! Đó cũng là một đòi hỏi chính đáng khi Đảng là lực lượng
chính trị duy nhất lãnh đạo đất nước.
Nhân dịp này, Tuần Việt Nam giới thiệu loạt bài viết, hồi
ức, suy ngẫm và kỳ vọng của các nhân sĩ, trí thức, những nhà lãnh đạo
của Đảng. Mỗi người một góc nhìn, nhưng tất cả cùng chung một tâm
huyết: làm gì để Đảng xứng đáng là Đảng của trí tuệ, Đảng là đạo đức,
là văn minh.
Mở đầu, xin giới thiệu bài viết của Giáo sư Tương Lai:
"Đảng là đạo đức, là văn minh"
Bác Hồ nhắc nhở điều đó trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 ngày thành
lập Đảng năm 1960. Một nửa thể kỷ đã trôi qua. Thời gian đã đủ để thấu
hiểu sâu sắc về điều mong muốn ấy của Bác. Để là đạo đức và văn minh,
Đảng phải là Đảng của dân tộc Việt Nam, và để là Đảng của dân tộc Việt
Nam thì Đảng phải là Đảng của trí tuệ Việt Nam. Nhân kỷ niệm 80 ngày
thành lập Đảng, xin được nói lên những điều suy ngẫm về chủ đề lớn này
trong bài viết dưới đây gồm 4 phần:
1. Trở lại khái niệm về đảng
2. Đảng phải là Đảng của dân tộc
3. Đảng phải là Đảng của trí tuệ
4. Đảng là đạo đức văn minh

"Đảng là đạo đức văn minh" Ảnh: hcmuaf.edu.vn |
Bài 1: Trở lại khái niệm về Đảng
Từ đảng - ý thức đến đảng - tổ chức
Phải trở lại về khái niệm nhằm xác lập một cách nhìn nhận đảng như
một thực thể chính trị, một phạm trù khoa học, để có sự phân tích mà
không vướng vào một thói quen từ lâu được tạo ra, khiến khi nhắc đến
đảng là động chạm đến một khái niệm được sùng kính kiểu "bái vật giáo"
với từ "Đảng" viết hoa. Trên bình diện khoa học sẽ có cách lý giải vấn
đề một cách khách quan hơn trong tiếp cận chân lý.
Xin bắt đầu bằng "Đường cách mệnh" xuất bản năm 1927, ở đó, Nguyễn Ái Quốc viết: "Cách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh thì cách mạng
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy."{1}
Có cái nhìn rộng ra hơn chút nữa, Đại Bách khoa toàn thư Pháp định nghĩa về các đảng chính trị như sau: "Nhìn
chung, một đảng chính trị có thể được định nghĩa như thể là một tập thể
xã hội tìm kiếm sự ủng hộ của nhân dân nhằm trực tiếp thực thi quyền
lực, và tập thể này được tổ chức theo thời gian và không gian sao cho
nó có thể vượt qua được ảnh hưởng cá nhân của người lãnh đạo. Định
nghĩa này vận dụng ba yếu tố - nền tảng của đảng, cơ cấu tổ chức và
nhiệm vụ của nó - mà người ta sẽ xem xét trước khi xem xét những đảng
được định nghĩa như vậy được hình thành trong lịch sử như thế nào".
Xin bắt đầu từ C.Mác, xem thử với ông, khái niệm đảng được hình
thành như thế nào: Trong các tác phẩm của ông, có thể nhận ra tư duy về
đảng của C.Marx có sự vận động từ "đảng - ý thức" đến "đảng - tổ chức". Đây là dấu ấn ảnh hưởng triết học Hégel về "giai cấp tự nó" phát triển thành "giai cấp cho nó" tức là Đảng.
Khi giai cấp có ý thức tự giác về bản thân mình, về vị trí, thân phận và sứ mệnh lịch sử của mình, thì giai cấp trở thành Đảng.
Vì thế "đảng - ý thức" là nơi các nhà cách mạng "sáng
suốt" [giống như thuật ngữ "tiên giác" trong truyền bá đạo lý của nhà
Nho] truyền bá lý luận cách mạng và giáo dục công nhân, gắn lý luận với
hành động. Từ "Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844" qua "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" cho đến lúc giải thể "Liên đoàn những người cộng sản" năm 1852, quan niệm của C. Mác về đảng của giai cấp vô sản ở quy mô quốc gia cũng như quy mô quốc tế chủ yếu là quan niệm về đảng - ý thức.
Nhưng sau đó, nhất là từ kinh nghiệm thất bại của Công xã Paris năm 1871 thì quan niệm về đảng chuyển rõ sang "đảng - tổ chức" lúc đầu còn có phần lỏng lẻo về sau ngày càng chặt, thể hiện rõ quan điểm Đảng Cộng sản là kết quả của sự kết hợp giữa lý luận cộng sản với phong trào công nhân(về sau Ph.Ăngghen gọi lý luận ấy là "học thuyết Mác").
Quan niệm về giai cấp
Để đi sâu vào vấn đề này, lại phải làm sáng rõ khái niệm giai cấp.
Cũng lại bắt đầu từ C.Mác. Thuật ngữ giai cấp được C.Mác sử dụng lần đầu tiên vào năm 1843, song phải đến 1846 với tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức",
được xem như là tác phẩm khai sinh hoc thuyết C.Mác, thuật ngữ này mới
được ông sử dụng một cách phổ biến. Tuy nhiên, có một điều mà những
người nghiên cứu về C.Mác gọi là nghịch lý cũng từ thuật ngữ này.
Trong 2500 trang của bộ "Tư bản" viết về đấu tranh giai cấp, không có một câu nào định nghĩa giai cấp là gì!
Không đưa ra định nghĩa, song đọc kỹ toàn bộ tác phẩm của C.Mác,
người ta có thể nhận thấy có 2 quan niệm khác nhau về giai cấp: một là, từ sau chế độ cộng đồng nguyên thuỷ, mọi xã hội của loài người đều là xã hội chia thành những giai cấp khác nhau; và hai là,
chỉ trong xã hội tư bản mới có giai cấp. Trước đó, xã hội loài người
chia thành đẳng cấp. Mà đẳng cấp thì đóng, cá thể hoá, người nào sinh
ra ở đẳng cấp nào là suốt đời ở đó. Còn giai cấp thì mở, phi cá thể
hoá, một người có thể chuyển từ giai cấp này sang giai cấp khác như
kiểu "giai cấp vô sản được tuyển mộ trong tất cả các giai cấp của dân cư " mà "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đã nêu.
Thuật ngữ "giai cấp vô sản", một từ gốc la tinh, xuất hiện từ thời
cổ La Mã, được Moses Hess sử dụng năm 1836 và phổ biến trong những
người phái tả ở Đức, được C.Mác sử dụng đầu tiên năm 1843 và tiếp liền
trong khoảng năm năm, thuật ngữ ấy mang nặng tính triết học. Chẳng hạn như: giai cấp vô sản là "giai
cấp đang hình thành, của xã hội tư sản mà không phải của xã hội tư sản,
chịu sự bất công tuyệt đối thuần khiết chứ không phải một sự bất công
cụ thể, là sự xoá bỏ xã hội và sự xây dựng xã hội, là sự mất đi hoàn
toàn chất người và sự chiếm lại hoàn toàn chất người".
Tính "trừu tượng triết học" ấy đưa đến những lý giải triết học về sứ mệnh của giai cấp vô sản và về chủ nghĩa cộng sản: "...sự
ra đời của giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp vô sản, nghĩa là sự
khốn cùng đã nhận thức được sự khốn cùng tinh thần và thể xác của mình,
là tình trạng phi nhân tính đã nhận thức được tình trạng phi nhân tính
của mình, do đó mà tự tiêu diệt mình". {2}
Và vì thế, "Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xoá bỏ một
cách tích cực chế độ tư hữu-sự tự tha hoá ấy của con người- và do đó
với tính cách là sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi
con người và vì con người...Nó là sự giải quyết câu đố của lịch sử và
biết rằng nó là sự giải quyết ấy" {3}.
Bắt đầu từ "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", quan niệm của C.Mác về giai cấp vô sản đã "kinh tế" hơn, "chính trị" hơn, thiết thực hơn, và là sự khẳng định giai cấp vô sản xuất hiện như tác nhân chính trên sân khấu của lịch sử.
Tuy nhiên, dần dần C.Mác đã thay thuật ngữ giai cấp vô sản (quyển I
bộ "Tư Bản") bằng thuật ngữ "giai cấp công nhân" (quyển II, quyển III
và quyển IV bộ "Tư Bản") để rồi dần dần thay thế thuật ngữ "giai cấp vô
sản" hay "giai cấp công nhân" bằng thuật ngữ "những người làm công ăn
lương" (quyển III, bộ "Tư Bản") và về cuối đời, C.Mác sử dụng một khái
niệm đã xuất hiện trong tác phẩm "Nội chiến ở Pháp" viết năm 1871: khái niệm "giai cấp những người sản xuất".
Có thể đọc thấy khái niệm đó trong "Lời nói đầu viết cho Bản Cương lĩnh của Đảng công nhân Pháp"
đăng trên tờ "Égalité" ngày 30.6.1880 và tờ "Le Prolétaire" ngày
10.7.1880, ba năm trước khi C.Mác qua đời mà về sau này, những nhà
nghiên cứu Mácxít xem đó như là "Di chúc chính trị của C.Mác": "Xét thấy rằng giải phóng giai cấp những người sản xuất là giải phóng toàn thể loài người" {4}.
Như vậy là, khái niệm về "người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản" thoạt đầu đóng khung trong thuật ngữ "giai cấp vô sản"
đã không "nhất thành bất biến" mà đã biến đổi theo hướng mở rộng ra. Số
đông, có thể nói là hầu hết các Đảng cộng sản Âu, Mỹ, đã tiếp thu sự mở
rộng nhận thức ấy. Điều ấy là do sự vận động của thực tiễn. Trong những
nước tư bản phát triển, "những người làm công ăn lương" cho nhà nước và
cho tư nhân chiếm tỷ lệ áp đảo, đến 80% và hơn 80% trong tổng lực lượng
lao động xã hội.
Lực lượng cách mạng
Sang thế kỷ XX, có 3 thay đổi lớn trong thực tiễn và trong nhận thức về lực lượng cách mạng:
- Các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa bị áp bức mà có nhà nghiên cứu cộng sản coi là giai cấp vô sản của thế kỷ XX, nổi lên đấu tranh đòi giải phóng. Phải chăng vì thế mà V.I Lênin bổ sung lời kêu gọi của C.Mác thành "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại".
- Kết cấu của xã hội hiện đại cho thấy sự phát triển mạnh của nhiều
tầng lớp xã hội rất gần với khái niệm "giai cấp những người sản xuất"
và "những người làm công ăn lương" mà không phải là giai cấp vô sản
nghĩa hẹp.
- Do các dân tộc thức tỉnh và tự khẳng định mạnh mẽ, ngay trong trào
lưu toàn cầu hoá kinh tế, dân tộc trở thành động lực và sức mạnh hùng
hậu của thời đại. Dân tộc nói đây không chỉ là độc lập dân tộc, mà rộng
hơn, còn là ý thức dân tộc, nguyện vọng dân tộc, quyền lợi dân tộc,
truyền thống dân tộc, đặc điểm dân tộc, bản sắc dân tộc...
Đảng là gì và của ai?
Từ những vấn đề đang đặt ra mà quay trở lại với chủ đề Đảng đã đề cập ở trên.
Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"có ba vấn đề liên quan trực tiếp đến chủ đề đang bàn: Một là, "giai cấp vô sản cho nó" tức là "đảng cộng sản, giai cấp có ý thức tự giác" chính là đảng cộng sản. Hai là, giai cấp vô sản thắng lợi tự thiết lập mình thành Nhà nước. Ba là, giai cấp vô sản thắng lợi trở thành dân tộc.
Với nhận thức và thực tiễn về đảng - tổ chức, C.Mác đã sớm xác định
Đảng là đội tiên phong có tổ chức của giai cấp công nhân và các lực
lượng cách mạng. Ông cũng sớm vạch rõ rằng Đảng cần tiên phong cả về ý thức cách mạng, tinh thần cách mạng và cả về trí tuệ để lãnh đạo xoá bỏ chế độ cũ xây dựng chế độ mới. Đây chính là điểm tựa để nhận thức kỹ về đảng là gì và đảng của ai.
Rõ ràng là trong lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân, cách
hiểu khái niệm đảng cũng như khái niệm giai cấp công nhân cũng không hề
"nhất thành bất biến", mà luôn luôn vận động và biến đổi. Vì thế, cách
gọi "Đảng của giai cấp công nhân" không thể được hiểu một cách máy móc.
Ngay từ năm 1868, tại Đại hội ở Bruxelles của "Quốc tế I"
Henri-Louis Tolain, một người thuộc phái Pruđông cánh hữu, đề nghị rằng
đại biểu của các đảng quốc gia nhất thiết phải là công nhân lao động
chân tay đã lập tức bị bác bỏ để tiếp tục khẳng định đảng cộng sản là
đảng liên giai cấp. Trong học thuyết Mác, quan niệm đảng chỉ là của
giai cấp vô sản (giai cấp duy nhất cách mạng, như nhận định trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"),
Đảng chính là giai cấp vô sản có ý thức tự giác, đã sớm chuyển thành
Đảng của các giai cấp cách mạng. Người ta hay nhắc đến câu nói nổi
tiếng của C.Mác: độc ca, độc tấu của giai cấp vô sản thì sẽ là bài ai điếu của cái chết!
Bởi lẽ, muốn đấu tranh thắng lợi thì phải liên minh giai cấp. Giai
cấp công nhân, qua đảng cộng sản, phải liên minh và lãnh đạo lực lượng
cách mạng đông đảo. Từ liên minh trong hành động cách mạng dẫn đến sự
kết nạp những phần tử ưu tú của các tầng lớp xã hội khác vào đảng cộng
sản. Liên minh với các giai cấp và tầng lớp trung gian đông đảo lại
càng quan trọng hơn nhiều. Ngay cả "một bộ phận của giai cấp tư sản
cũng chạy sang hàng ngũ giai cấp vô sản, đó là bộ phận những nhà tư
tưởng tư sản đã vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ quá
trình vận động lịch sử"5.

"Đảng
cách mạng của giai cấp vô sản chỉ xứng với cái tên ấy khi liên kết được
đảng, giai cấp và quần chúng nhân dân thành một tổng thể gắn bó không
thể chia cắt". |
Liên minh công nông là quan trọng nhất. Từ những năm 90 của thế kỷ
XIX, liên minh công nông trở thành vấn đề lớn của cuộc sống. Sau khi
C.Mác mất, Ph.Ăngghen là nhà lý luận đầu tiên đặt ra yêu cầu "Đảng phải từ thành phố về đồng quê", "Đảng phải trở thành một sức mạnh lớn ở nông thôn", "hãy dành cho người nông dân tất cả thời gian cần thiết để suy nghĩ trên luống cày cá thể của mình"...
Kế tục Ph.Ăngghen, V.I Lênin xem liên minh công nông là nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản, đồng thời chỉ rõ rằng: "Đảng
cách mạng của giai cấp vô sản chỉ xứng với cái tên ấy khi liên kết được
đảng, giai cấp và quần chúng nhân dân thành một tổng thể gắn bó không
thể chia cắt".
Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, các Đảng Cộng sản trên thế
giới đều theo lý luận và chủ trương đoàn kết tất cả mọi giai cấp và
tầng lớp xã hội, chống một bộ phận của giai cấp tư sản là chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước.
Ở nước ta, Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: "Trong
thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều,
cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân
thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Gắn với thực tiễn
Xem thế đủ thấy rằng nhận thức về giai cấp và về đảng thường xuyên
vận động để phản ánh đúng sự vận động của thực tiễn. Mà thực tiễn thì
cao hơn nhận thức lý luận vì nó có ưu điểm không những của tính phổ
biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp. Vì thế, đúng như C.Mác đã
khuyến cáo "vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý".
Trong hành trình tư duy của C.Mác, sự vận động từ giai cấp vô sản, đến giai cấp công nhân, đến những người làm công ăn lương và giai cấp những người sản xuất, rồi từ đảng - ý thức đến đảng - tổ chức chính là hành trình tìm tòi chân lý. Thời kỳ đầu, với khái niệm "giai cấp vô sản" C.Mác quan niệm: "giai
cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng
như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn
chỉ có thể tồn tại với tư cách là một tồn tại "có tính lịch sử thế giới".
Ông giải thích: "...Sau khi thắng lợi, giai cấp vô sản dù sao
cũng không thể nào trở thành mặt tuyệt đối của xã hội, vì rằng chỉ có
sự tiêu diệt và tiêu diệt mặt đối lập của mình thì nó mới giành được
thắng lợi. Với thắng lợi của giai cấp vô sản, bản thân giai cấp vô sản
và mặt đối lập chi phối nó là chế độ tư hữu, đều tiêu vong"! {6}.
Phải chăng về cuối đời, C.Mác nhận ra khái niệm "giai cấp vô sản" không
thích hợp để chỉ lớp người cụ thể mình muốn nói, nên đã thay bằng "giai
cấp những người sản xuất"?
Liệu khái niệm này đã phản ánh đúng điều mà C.Mác tìm tòi chưa?
Không thể trả lời một cách đơn giản, vì sự nghiệp khoa học của C.Mác
còn dang dở. Hơn nữa, C.Mác là người mà sự sửa chữa đến nhanh hơn sự
hình thành, chưa hình thành đã sửa chữa. Chính vì thế, đối chiếu với
thực tế hiện nay, khi mà ở những nước tư bản phát triển, "những người
làm công ăn lương" cho nhà nước và cho tư nhân chiếm tỷ lệ áp đảo, đến
80% và hơn 80% trong tổng lực lượng lao động xã hội như đã dẫn ra ở
trên, thì khái niệm "giai cấp vô sản" cũng như khái niệm "giai cấp công nhân" trong học thuyết Mác tất nhiên cũng phải thay đổi. Khái niệm giai cấp đã thay đổi thì đương nhiên khái niệm "đảng của giai cấp công nhân" và chỉ của giai cấp công nhân thôi, cũng phải thay đổi.
Cần nhắc lại, trong đại hội họp ở Bruxelles của Quốc tế I, quan điểm
cực đoan và máy móc cho rằng đại biểu của đảng nhất thiết phải là công
nhân lao động chân tay đã bị bác bỏ. Đấy là chưa nói chính V.I Lênin,
chứ không phải ai khác, đã chỉ rõ rằng, những trí thức tư sản tiến bộ
mang đến cho giai cấp vô sản ý thức xã hội chủ nghĩa : " Lịch sử
tất cả các nước chứng tỏ rằng chỉ do lực lượng độc của bản thân mà thôi
thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên chủ
nghĩa...Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phát sinh từ các lý luận
triết học, lịch sử kinh tế, do những người có học thức trong các giai
cấp hữu sản, những trí thức xây dựng nên. Mác và Ăngghen, những người
sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, do địa vị của các ông,
nên chính bản thân các ông cũng thuộc lớp trí thức tư sản". {7}
Ở thời đại của C.Mác, rồi của V.I Lênin đã như vậy, nếu các ông sống
trong thời đại của chúng ta, thời đại của nền kinh tế tri thức với
những thành tựu như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và
hội nhập quốc tế trong xu hướng toàn cầu hoá, không hiểu các ông sẽ đòi
hỏi những nhận thức về giai cấp công nhân, về đảng của giai cấp công
nhân phải thay đổi như thế nào. Đặt ra câu hỏi này không phải là một
giả tưởng nguỵ biện mà là một thực tế. Vì, cũng không ai khác, chính
V.ILênin, khi chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP) đã khẳng định: "Toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi" {8}.
Gần một thế kỷ đã trôi qua, thời gian đã sàng lọc, gạt bỏ bao nhiêu
ngộ nhận và sai lầm để giúp cho con người đến gần hơn với chân lý cuộc
sống.
(Theo Tuanvietnam.net)