 |
Đại tá Nguyễn Trọng Quyến cùng lá cờ đã theo ông suốt
35 năm - Ảnh: P.Vũ |
Một sáng trời Hà Nội mưa phùn ẩm ướt, lẫn trong số
những du khách nước ngoài lao xao ngắm nghía những tấm bản đồ, chiếc mũ
cối, khẩu súng lục... trong bảo tàng, vị đại tá già cứ nấn ná mãi bên
một lá cờ đỏ sao vàng nằm khiêm tốn ở góc tủ. Vẻ nắm níu của ông đã
khiến ban giám đốc bảo tàng có một quyết định ngoại lệ: cho ông mượn lá
cờ để thỏa lòng ngắm nghía, vuốt ve.
Ông là đại tá Nguyễn Trọng Quyến, người nổi tiếng với
“phi vụ” lái xe vượt sông qua những cây cầu dây đặc biệt ở đường Trường
Sơn, cũng là người đã tặng lá cờ này cho bảo tàng. Nhưng, “cứ đến những
ngày kỷ niệm chiến dịch Hồ Chí Minh, tôi lại thấy không thể thiếu lá cờ
này. 35 năm rồi...”, ông Quyến rưng rưng. Những ngày xưa lại ùa về...
2.000 lá cờ, 40.000 băng tay và 2 đồng bạc Cụ Hồ
Ngày 22-4-1975, Bộ tư lệnh tiền phương cánh đông của
trung tướng Lê Trọng Tấn tiến vào Xuân Lộc (Đồng Nai). Thế trận giằng co
ác liệt suốt mấy ngày, đang nhuốm với khói lửa chiến trường trong vai
trò tư vấn kỹ thuật, đại úy, kỹ sư Nguyễn Trọng Quyến được phó tư lệnh
gọi lên giao một nhiệm vụ lạ: “Cậu lập tức chuẩn bị ít nhất 2.000 lá cờ
đỏ sao vàng, 4 vạn băng đeo tay cho lực lượng quân quản. Bộ tư lệnh đã
quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn”.
Nghe đến chữ “giải phóng”, Quyến thấy mình như muốn bay
lên nhưng anh vẫn không khỏi lúng túng: “Thưa tư lệnh, việc này khó
quá. Vùng này chưa kịp giải phóng, đường sá thầy thợ đều không biết, dân
đã di tản hết, thời gian lại quá gấp...”.
Tướng Lê Trọng Tấn cười nhưng nghiêm nét mặt: “Mọi việc
là do mình. Chiến tranh phải tùy cơ ứng biến, mệnh lệnh phải chấp hành.
Cậu có một ngày để hoàn thành”. Thế là anh kỹ sư ôtô, xe tăng lên đường
đi làm... thợ may.
“Cuối tháng 5-1975 tôi quay lại Phan Thiết, Bình Tuy tìm
ông Ba Mì, Ba Thành hỏi chuyện thanh toán công nợ. Hai ông đều cười,
bảo: “Anh về báo cáo với tư lệnh: chiến dịch Hồ Chí Minh thành công, bớt
đổ máu của dân chúng đó là tiền công lớn nhất với chúng tôi rồi. Bộ đội
không tiếc xương máu sao nhân dân chúng tôi lại tiếc tiền”. Tôi quay
về, một lần nữa cảm động nói không nên lời về nghĩa đồng bào. 10 năm
sau, lần vào TP.HCM cùng đại tướng Lê Trọng Tấn kỷ niệm 10 năm giải
phóng, ngồi nhắc chuyện cũ đại tướng chợt hỏi: “Rồi lúc đó cậu lấy đâu
tiền trả công may cờ cho người ta?”. Tôi kể lại câu chuyện, ông nghe rồi
cũng lặng đi...” - ông Quyến kể. |
Cầm
tấm giấy giới thiệu của vùng mới giải phóng, Quyến và một chiến sĩ nữa
lái xe quay ra Phan Thiết. Gặp ông Ba Mì, chủ tịch ban quân quản Phan
Thiết, Quyến trình bày nội dung yêu cầu. ông Ba Mì gãi đầu kể đúng những
khó khăn mà anh đã dự liệu: Phan Thiết mới giải phóng được hai ngày còn
nhiều lộn xộn, hầu hết dân chúng đều di tản tránh bom đạn chưa về, các
cửa tiệm may, bán vải vóc đều đóng cửa... Cả hai nhìn nhau hồi lâu rồi
cùng buột miệng: “Nhiệm vụ thì phải hoàn thành”.
Ông Ba Mì hỏi Quyến: “Thế đồng chí có tiền không?”.
Quyến lại lúng túng. Trong chiến tranh có ai nghĩ đến tiền. Rút ví,
trong đó còn vài tờ bạc 1 đồng cất từ ngày còn ở Hà Nội, Quyến lấy ra
đưa cả cho Ba Mì.
Và hôm nay, ông Quyến, 77 tuổi, vẫn còn nhớ khoảnh khắc
ấy: nét mặt ông Ba Mì bỗng rưng rưng, ông run run rút lấy một tờ bạc,
soi lên ngắm nghía hình ảnh Bác Hồ rồi đặt áp lên mặt mình. Quyến theo
dõi hành động ấy như là lần đầu chứng kiến tình cảm của những người miền
Nam đối với Bác.
Giây lát, ông Ba Mì nâng niu tờ giấy bạc cất vào ví của
mình rồi ngẩng lên quả quyết: “Tôi cầm 1 đồng này, coi như Cụ Hồ giao
nhiệm vụ. Tôi nhận thực hiện một nửa số lượng đồng chí cần, trưa mai cho
xe đến lấy hàng”. Ông Ba Mì còn chiêu đãi Quyến một cốc nước sôi và
thanh lương khô. Quyến một lần nữa thấy mình “bay lên”, mồ hôi toát ra
ướt cả quần áo như vừa đặt xuống được một gánh nặng.
Quay xe ra Bình Tuy (tức Hàm Tân, Bình Thuận bây giờ)
đã nửa đêm. Lại tìm gặp ông Ba Thành, trưởng ban quân quản, lại cùng
nhau nhăn trán trước những khó khăn cũ, nhưng lần này Quyến đã biết cách
giải quyết: rút ra 1 đồng bạc Cụ Hồ. Cũng vẻ xúc động không che giấu
của người miền Nam, ông Ba Thành cất đồng bạc vào túi áo: “Tôi nhận cho
anh, ra Phan Rang chưa chắc đã xong”.
Cái gì chẳng là của dân, của nước
“Lúc đó nhiệm vụ của tôi chỉ còn là điều xe chở hàng.
Hẹn giờ các đầu mối xong, hai anh em lăn ra đánh một giấc đến tận chiều
hôm sau. Mở mắt ra đã thấy cờ, băng tay đỏ chói được bà con chở đến bằng
xe đạp, xe máy từ khắp nơi. Mọi người xúm vào đóng thùng, chuyển ra
xe”, ông Quyến nhớ lại.
Ngày 24-4-1975, trong các cánh rừng cao su miền Đông,
đại diện các sư đoàn, trung đoàn từ năm cánh quân tập trung lại nhận cờ
và băng đeo tay cho lực lượng quân quản. Mọi người đều biết ngày thống
nhất đất nước sắp đến rồi. Ngày 26-4, chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức
bắt đầu...
Hôm nay, cầm lá cờ đỏ sao vàng hầu như vẫn còn mới,
vuốt từng đường kim mũi chỉ trên tay, ông Quyến bùi ngùi: “Ngày ấy mọi
việc sao mà đơn giản. Đơn giản đến nỗi tôi không hề nghĩ xem trong khi
mình ngủ một giấc thì ông Ba Mì, Ba Thành phải đi vận động dân chúng như
thế nào, đã gom vải, cắt may ra sao để có những lá cờ đẹp và đúng chuẩn
như thế này. Đúng là tấm lòng của đồng bào miền Nam không gì đo đếm
được”.
Một trong 10 lá cờ to nhất được ông Quyến cắm trên xe
của phó tư lệnh cánh đông, trung tướng Lê Trọng Tấn, là cánh đầu tiên
tiến vào giải phóng Sài Gòn. Sau ngày 30-4-1975, niềm vui vỡ òa cùng bao
nhiêu công việc cuốn mọi người vào những sự kiện liên tiếp, nhưng ông
Quyến vẫn nhớ cất vào đáy balô tấm băng đeo tay của mình cùng với lá cờ
trên xe phó tư lệnh. Trở về Hà Nội, ông sử dụng luôn lá cờ ấy để cắm
trước nhà mình trong những ngày lễ 30-4, 2-9, Tết Nguyên đán. Treo xong
lại vuốt thẳng, gấp cẩn thận cất đi. Cứ thế suốt 35 năm...
“Hôm rồi Bảo tàng Lịch sử quân sự VN phát động đóng góp
kỷ vật, có lời kêu gọi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đối với quân nhân
chúng tôi, khi nào lời của anh Cả cũng là lệnh, vả lại tất cả những thứ
mình có, cái gì chẳng là của dân, của nước chứ nào phải của riêng mình.
Nghĩ thế, có 12 vật kỷ niệm sưu tầm từ chiến dịch Điện Biên Phủ tôi giao
lại hết cho bảo tàng” - ông Quyến vuốt lá cờ lần nữa trước khi trả lại,
nói. Ông đã mua một lá cờ khác để chuẩn bị treo ở nhà dịp 30-4 này.
 |
Hai cuốn nhật ký chiến trường của thiếu tướng Hồ Đệ (nguyên sư
trưởng sư đoàn 10) và đại tá Vũ Đình Thước cùng có những trang cuối cùng
viết vào ngày 30-4-1975, những kỷ vật mới được trao tặng cho Bảo tàng
Lịch sử quân sự VN - Ảnh: P.Vũ |
10.000 hiện vật trong 2 năm
Cuộc vận động sưu tầm và giới thiệu “Những kỷ vật kháng
chiến” do Tổng cục Chính trị phối hợp với Hội Cựu chiến binh VN, Trung
ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức từ năm 2008 đến nay đã
thu nhận được hơn 10.000 kỷ vật, “bằng mấy chục năm làm việc của bảo
tàng”.
Các kỷ vật đều đã được lập hồ sơ khoa học, đã, đang và
sẽ được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự VN. Sắp tới, bảo tàng sẽ
mở rộng việc sưu tầm kỷ vật chiến tranh, thu nhận những kỷ vật từ phía
quân đội Sài Gòn và quân đội Mỹ.
Nhân kỷ niệm 35 năm giải phóng miền Nam, ban tổ chức
cuộc vận động phối hợp với Cục Chính trị Quân khu 7, Hội Cựu chiến binh
VN, Hội Cựu chiến binh TP.HCM tổ chức cuộc gặp mặt các nhân chứng lịch
sử đã tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và tiếp nhận kỷ vật vào ngày
17-4-2010 tại Bảo tàng Quân khu 7, TP.HCM. |
(Theo Tuoitre.vn)