Thi phái 'Áo bào gốc liễu' trong Thơ Mới
Theo hồi ức của một vài văn thi sĩ tiền chiến, Trần
Huyền Trân, Nguyễn Bính và Thâm Tâm là ba người bạn rất thân, họ thường
nhóm nhau ở vùng Cống Trắng, Khâm Thiên, hoặc sau ga Hà Nội hồi những
năm 1940. Không những thế, bằng một mảng tác phẩm rất riêng của mình, họ
còn tự biệt ra thành một phái trong Thơ Mới: phái “Áo bào gốc liễu”. Có
thể, về ý nghĩa văn học sử, phái “Áo bào gốc liễu” còn xa mới có được
tầm vóc như “Trường thơ Loạn” của các nhà thơ miền Trung Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, Bích Khê, nhưng dù sao thì nó cũng không lặp lại ở các nhóm
phái thơ ca khác. Bởi thế, nó cũng đã góp phần tạo nên sự đa diện trong
và cho Thơ Mới. Thật lạ, vì trong Thơ Mới lãng mạn, khi đại đa số nhà
thơ cởi mở cõi lòng để đắm say với ái tình chàng chàng thiếp thiếp, để
tận hưởng cảnh thiên nhiên đẹp và những giấc mơ viễn xứ, hoặc ít ra, để
trốn vào làng quê Việt với dăm ba nét xưa cũ còn sót lại trong cuộc thay
da đổi thịt lớn lao, thì con người “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như
một nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính - đặc biệt là qua thơ của Thâm
Tâm, Trần Huyền Trân - và khiến người ta phải chú ý. Chú ý vì cái dư vị
cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ
thi. Chú ý vì giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, một giọng
điệu quả thực không mấy phổ biến trong Thơ Mới.
 |
Minh họa của Amy. |
Trước hết, hãy nói đến Nguyễn Bính, tác giả vốn được
mặc định như là “thi sĩ chân quê”, như là người được sinh ra để cất lên
những khúc hát thương cho làng quê Việt đang có nguy cơ bị xâm thực và
biến mất trước ngọn triều thành thị hóa. Giọng thơ Nguyễn Bính là giọng
thơ thương cảm, “mùi mẫn”, hợp với chủ nghĩa mủi lòng của đại đa số độc
giả Việt Nam (điều này giải thích tại sao thơ Nguyễn Bính lại có sức phổ
biến rộng và lâu bền đến thế). Thế nhưng, ở bài thơ có tên Bài hành
phương Nam, viết năm 1943, Nguyễn Bính cho thấy một giọng thơ đã
khác đi rất nhiều. “Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?/ Cốt nhất vui cười
trọn tối nay/ Rẫy ruồng châu ngọc thù son phấn/ Mắt đỏ lên rồi, cứ chết
ngay!” Đó là hình ảnh của một anh hùng giữa đám quần thoa, một anh hùng
đang phóng túng hình hài trong cơn bế tắc tinh thần. Thậm chí có thể
nói, đó là hình ảnh “lộn trái” của người anh hùng trong cổ thi: “Hỡi ơi,
Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?/ Kinh Kha
quán lạnh sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?/ Mơ gì Áp Tiết
thiêu văn tự/ Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây!” Phá sản trong nỗ lực tìm
kiếm sự đồng hội đồng thuyền từ những nhân vật anh hùng của nước Trung
Hoa thuở trước, người “anh hùng” Việt Nam thời tư sản hóa rốt cuộc phải
cay đắng đối mặt với tình thế của mình: “Ta đi nhưng biết về đâu chứ?/
Đã dấy phong yên khắp bốn trời/ Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà
gọi thế nhân ơi/ Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ/ Ta với nhà ngươi cả
tiếng cười/ Dằn chén hất cao đầu cỏ dại/ Hát rằng phương Nam ta với
ngươi/ Ngươi ơi! Ngươi ơi, hề ngươi ơi/ Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh/
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi”. Đáng tiếc, những bài như Bài hành
phương Nam là cực hiếm trong toàn bộ thi nghiệp của
Nguyễn Bính.
Với Trần Huyền Trân, có lẽ nên nói rằng đó là tác giả
có cái bút danh “đượm mùi váy áo” nhưng lại sở hữu một giọng thơ khá rắn
rỏi, gân guốc. Hoài Thanh, khi làm Thi nhân Việt Nam vào năm
1941, mới chỉ ghi nhận Trần Huyền Trân như là tác giả của “những vần thơ
hiền lành và ít nói yêu đương”. Thật lạ, chỉ cần đọc một bài như Độc
hành ca (1940) là sẽ thấy Trần Huyền Trân không “hiền lành” chút
nào: “Giao tình tợp chén chiêm bao/ Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp chân/
Đây người áo đỏ tầm xuân/ Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan/ Không
dưng rét cả dây đàn/ Này cung dâng áo ngự hàn là đây/ Nhớ xưa cùng dỗ
bụi giày/ Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao/ Say đời nhắm lẫn chiêm bao/ Thơ
ra miệng dại, rượu vào mắt điên”. Đây đích thị là khẩu khí của một hào
khách ngang tàng, lấy giang hồ làm nhà, lấy bằng hữu làm vui, coi tiếng
“khà” thích khẩu còn hơn cả trùng trùng danh lợi. Nhưng, cũng rất dễ
nhận thấy ở Độc hành ca cái cảm thức về sự bế tắc, tù túng, ngột ngạt,
không lối thoát: “Nẻo về chật chội áo cơm/ Dặm đi động lại từng cơn lá
rừng/ Lòng ta không sóng không dừng/ Thơ vang lại vướng mấy tầng cửa
quan”. Bởi thế, rất logic, tác giả đã kết bài thơ của mình bằng những
câu chất chứa tâm trạng phẫn hận, những câu thơ như nhỏ máu: “Chiều nay
nhấc chén lên môi/ Không dưng tưởng nhắp máu người tanh tanh/ Khóc nhau
ném chén tan tành/ Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ/ Cố nhân, ới hỡi
người xưa/ Dọn đi tâm sự, đây mưa về rừng”. Tới năm 1943, trong bài
Say ca, Trần Huyền Trân đã chuyển hóa sự phẫn hận ấy thành tiếng
cười gằn, cay đắng, kiêu bạc: “Mắt trong ví chọc cho mù/ Thì đen bạc đấy
cũng ừ vàng son/ Cười xòa giờ vẫy nước non/ Tay chừng cũng ngượng chẳng
còn gió bay/ Này thôi đấy! Này thôi đây/ Này thôi kia nữa, hớp này thì
thôi/ Men lên ví chuyển lại thời/ Lũ ta đội ướt đêm dài với nhau”.
Nguyễn Sĩ Đại, trong bài viết Từ những mưa đêm lều vó đến vô tận
nguồn hương có nhận xét khá tinh tế: “Cái lạ là ông dùng nhiều khẩu
ngữ, khẩu ngữ của một anh chàng phẫn chí mà vẫn toát lên được cái tao
nhã khí khái của một thái độ sống tích cực” (Thơ Trần Huyền Trân.
NXB Văn học, 2001. Tr253). Quả có vậy, trong tiếng cười cay đắng kiêu
bạc của Say ca, hình như đã ẩn chứa một tâm thế sẵn sàng hành
động (không nên quên rằng chính vào năm 1943, nhà thơ Trần Huyền Trân đã
tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc).
Thâm Tâm, nhân vật cuối cùng trong phái “Áo bào gốc
liễu”, là tác giả đã quá nổi tiếng với bài Tống biệt hành, nổi
tiếng đến mức đôi khi làm người ta quên mất rằng ông còn là tác giả của
những bài thơ rất đặc sắc khác, như Tráng ca, Vọng nhân hành, Can
trường hành (đều viết trong năm 1944). Đọc thơ Thâm Tâm, ở những
đoạn như “Phiếm du mấy chốc đời như mộng/ Ném chén cười cho đã mắt ta/
Thà với mãng phu ngoài bến nước/ Uống dăm chén rượu quăng tay thước/ Cái
sống ngang tàng quen bốc men” hay: “Thi với người nằm say bóng liễu/
Thi với người chờ mong kẻ rượu/ Lòng thênh thênh nhẹ gió thu sơ/ Nghĩa
khí ngàn năm gió chẳng mờ” (Can trường hành), tôi không khỏi
liên tưởng tới thi tiên Lý Bạch với những Tương tiến tửu, Hiệp khách
hành lưu danh thiên cổ: cũng thái độ khinh thế ngạo vật ấy, cũng
hào khí bừng bừng ấy, không khác! Từ một phía khác, khác với Nguyễn Bính
và Trần Huyền Trân, có thể thấy khá rõ ở thơ Thâm Tâm nổi lên chủ yếu
không phải là sự cay đắng, phẫn chí, mà là một tinh thần sục sôi hành
động, một cảm hứng xóa cũ tạo mới không gì ngăn được. Bình bài Tống
biệt hành (chắc chắn là được viết trước năm 1941), Hoài Thanh nói
rằng nó “đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”, nhưng ở các bài
thơ sau này của Thâm Tâm thì chẳng có gì bâng khuâng khó hiểu cả. Hãy
đọc: “Nện cho vang tiếng chuông chiều/ Thù đem sức sớm đánh kêu trống
đình/ Thở phù hơi rượu đua tranh/ Quăng tay chén khói tan thành trời
mưa/ Dặm dài bến đón bờ đưa/ Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau/ Kìa
kìa lũ trước dòng sau/ Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương” (Tráng
ca); và đọc: “Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/ Ta ghét hoài câu nhất
khứ hề/ Ngoài phố mưa bay xuân bốc rượu/ Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê/
Ơi ơi bạn tác ngoài trôi giạt/ Chẳng đọc thơ ta tất cũng về” (Vọng
nhân hành). Những câu thơ ấy, ở bên trong cái vẻ mang dáng dấp cổ
thi của nó, nếu không rơi vào suy diễn quá mức, tôi cho rằng đó chính là
những câu thơ cách mạng, theo nghĩa: thơ về và vì một sự thay đổi thật
lớn lao (hãy lưu ý đến thời điểm ra đời những bài thơ này của Thâm Tâm
Nguyễn Tuấn Trình: năm 1944, đêm trước của Cách mạng tháng Tám 1945).
Xin nhắc lại một lần nữa: trên phương diện văn học sử,
thơ của phái “Áo bào gốc liễu” có thể không phải bộ phận tác phẩm thực
sự quan trọng. Thế nhưng, nó độc đáo, nó góp phần làm thành sự đa dạng
cho diện mạo thơ Việt Nam trước năm 1945, và tất nhiên chúng ta sẽ không
thể có nhận thức đầy đủ về một giai đoạn trong thơ hiện đại nếu gạt nó
ra khỏi sự quan tâm. Ai đó nói rằng công của thi sĩ Vũ Hoàng Chương là
nâng cái chán chường lên thành thơ, tôi cũng xin được “nối điêu” bằng
một ý: công của phái thơ “Áo bào gốc liễu” là đã nâng cái bất bình lên
thành thơ, mang đến cho cái bất bình một chiều kích mỹ học nào đó. Đúng
như một câu của Trần Huyền Trân trong bài Độc hành ca: “Nghe
vang vỡ cái bất bình thành thơ”.
(Theo Evan.vnexpress.net)