Thứ sáu, 07/05/2010 09:28
Các triều đại "chinh phục" Hồ Tây
Sử chép: Năm 1044, Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm lấy con voi nhà làm mồi nhử voi rừng vào trong ấy. Cuối Thế kỷ XI còn có trăn hoa trườn bò trong rừng Voi Phục...
Sử chép: Năm
1044, Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm lấy con voi nhà làm mồi nhử voi rừng
vào trong ấy. Cuối Thế kỷ XI còn có trăn hoa trườn bò trong rừng Voi
Phục...
 |
Hồ Tây |
Hồ Tây là “con đẻ” của Sông Hồng do các cuộc thăng trầm dâu bể về mặt
địa chất mà thành. Xa xưa, xung quanh bờ hồ rừng tre ngà, bàng, lim, lau
sậy và gỗ tầm... Một số loài thú quý cũng về quần tụ nơi đây.
Sử chép “Năm 1044, tháng 9 Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (địa phận Thôn
Tây Hồ) lấy con voi nhà của Chiêm Thành (vừa đem cống) làm mồi nhử voi
rừng vào trong ấy”. Cuối Thế kỷ XI còn có trăn hoa trườn bò trong rừng
Voi Phục (Thủ Lệ).
Từ chốn rừng rậm, đầm lầy hoang hóa, qua công lao khai khẩn xây dựng của
bao thế hệ, trong đó có sự đóng góp rất lớn của một số vương phi các
triều đại, Hồ Tây đã trở thành một thắng cảnh văn hóa - du lịch nổi
tiếng của Kinh đô Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Nếu Hồ Tây được ví như nhụy hoa thì Thập tam trại (13 làng trại) là
những cánh hoa đẹp tỏa hương sắc thơm lành.
Tương truyền Chùa Kim Liên được dựng trên nền cung điện của Công chúa Từ
Hoa - con Vua Lý Thần Tông (1127-1138). Để phát triển cơ sở tầm tang,
Công chúa Từ Hoa đã mang các cung nữ ra khu vực Hồ Tây khai hoang, lập
ấp và dựng nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa cho họ. Trại Nghi Tàm là một
điền trang lớn quán xuyến việc này.
Thời Trần, Hồ Tây vẫn được khai phá, cải tạo. Công chúa Túc Trinh con
Vua Trần Thánh Tông (1258-1278) đã rời cung điện ra vùng Bắc Kinh thành
Thăng Long rồi bỏ tiền phát chẩn, cấp giống vốn cho dân nghèo làm ăn
sinh sống. “Lúc đầu chỉ chiêu mộ được 10 nhân khẩu, thấy mảnh vườn bên
sông vừa đẹp lại vừa tiện đi lại nên lập ấp nhỏ ở xứ Vườn, sau dân lập
thành làng đặt tên là Cổ Nhuế viên”.
Với ý thức khuyến nông và từ thiện, Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Xuyến (Vương
phi của Chúa Trịnh Tạc) ở Thế kỷ XVII (triều đại Lê Trung hưng) đã mua
529 mẫu ruộng hoang hiến cho dân làng Xã Minh Cảo - Xuân Đỉnh (nay thuộc
Quận Tây Hồ) cày cấy và cúng hậu vào đền chùa là 10 mẫu 2 sào 8 thước.
Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Xuyến còn cho khôi phục lại Đền Sóc (thờ Thánh
Gióng) với quy mô khang trang. Theo gương mẹ, Quận chúa Trịnh Thị Ngọc
Lan đã mua 10 mẫu 2 sào 8 thước hiến cho Xã Minh Cảo - Xuân Đỉnh.
Khát vọng dân giàu nước mạnh
Điểm lại lịch sử có thể khẳng định một điều: Công việc khai hoang lập ấp
dạy nghề của một số Công chúa Vương phi các triều đại ở Hồ Tây không
chỉ là hành động của mỗi công dân thực hiện chủ trương chính sách khuyến
nông của Nhà nước phong kiến đương thời mà qua đó cũng thể hiện rõ chủ
trương chính sách của triều đình ban bố rất phù hợp với nguyện vọng của
dân chúng.
Sở dĩ Công chúa Từ Hoa có điều kiện mở mang trại Nghi Tàm để trồng dâu
nuôi tằm dệt lụa bởi nhà Lý suốt 2 Thế kỷ XI và XII rất chú trọng đến
vấn đề dùng hàng dệt trong nước và người dùng khởi đầu chủ trương ấy là
Vua Lý Thái Tông (1022-1054). Vua cho đón các thợ dệt giỏi từ các vùng
về Kinh thành dạy cung nữ dệt, những phụ nữ bị tội đồ đều phải đi nuôi
tằm.
Tại kinh thành Thăng Long Vua cho lập một xưởng dệt gấm. Các đời Vua Lý
kế vị vẫn duy trì chính sách dùng hàng dệt do dân Đại Việt sản xuất. Nhờ
thế nghề dệt ở Thăng Long dưới triều Lý thịnh đạt, các nghệ nhân phát
huy khả năng sáng tạo những mặt hàng có chất lượng cao: lụa, là, sa,
the, đoạn, quyến, gấm, nhiễu, vóc, lượt v.v... Năm 1156 nhà Lý còn tặng
nhà Tống nhiều vật phẩm quý trong đó có 850 đoạn màu vàng có hoa rồng
cuốn.
Thế kỷ XIII nghề dệt được cải tiến thêm một bước. Chính đoàn sứ thần nhà
Nguyên sang ta năm 1280 sau khi qua các vùng quê ở Thăng Long đã ghi
nhận nhiều điều về nghề dệt. Sứ giả Trần Phu đã thấy khắp nơi có vườn
dâu nho nhỏ và Từ Minh Thiện đã thấy tận mắt sờ tận tay những tấm lụa
ngũ sắc sợi nhỏ.
Khát vọng về dân giàu nước mạnh, nhà Trần hiểu thấu vấn đề “Có thực mới
vực được đạo”, “Thực túc binh cường” nên năm 1266 (tức 8 năm sau khi
chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất) Vua Trần đã xuống chiếu “Cho các
Vương hầu, Công chúa, Phò mã, Cung tần khai khẩn ruộng hoang, lập thành
điều trang”. Công chúa Túc Trinh cũng hòa nhập vào trào lưu ấy. Quyền sử
dụng ruộng đất và việc trông coi chăm sóc, bảo vệ tài sản, ruộng đất cá
nhân cúng tiến làng xóm được pháp luật bảo đảm.
Không chỉ thời Lý - Trần động viên mọi người khai khẩn ruộng đất mà thời
Lê - Trịnh cũng vậy. Nhà nước còn hỗ trợ thêm cho những người làm việc
thiện, có công đầu tư, bảo tồn di sản văn hóa Quốc gia.
Khi bà Vũ Thị Ngọc Xuyến - Chiêu nghi đệ nhất cung tần của Hoằng tổ
Dương Vương Trịnh Tạc khôi phục Đền Sóc thờ Phù Đổng Thiên Vương thì
triều đình đã cử quan Thượng thư Nguyễn Công Cơ về địa phương điều khiển
công trình văn bia ở đền Sóc và các sắc phong cũng đề cao công lao của
bà Chiêu nghi Vũ Thị Ngọc Xuyến trong việc hiến ruộng đất cho làng xã.
Những sự kiện khai khẩn ruộng đất, lập ấp, dạy nghề của một số Công
chúa, Vương phi các triều đại ở Hồ Tây đã đạt được những thành tựu đáng
kể, đã cho thấy đây là bài học kinh nghiệm hợp với đạo lý, luật pháp
trong từng hoàn cảnh, thời kỳ lịch sử cụ thể để phát huy được sức mạnh
vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và cộng đồng.
* Các tiêu đề do Tòa soạn đặt
Trích Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng
Long
|
|
|
Tin đọc nhiều
Hà Nội từ lâu được bạn bè ...
11:18 | 10/06/2015
Nói về đóng góp của ...
02:58 | 12/12/2013
Bạn có nghe thông tin có ...
08:26 | 14/05/2013
Có lẽ, trong nhiều ...
02:22 | 26/05/2014
Nhìn lại khoảng thời ...
03:26 | 10/10/2014
|