Ða số ý kiến phát biểu đồng tình với báo cáo giải trình, tiếp thu,
chỉnh lý
của Ủy ban Thường vụ QH. Về nội hàm chính sách tiền tệ quốc gia (CSTTQG)
và thẩm
quyền quyết định thực hiện CSTTQG, một số đại biểu đề nghị cần diễn đạt
chính
xác, rõ hơn và thống nhất một số khái niệm đề cập trong Ðiều 3, không
nên đồng
nhất CSTTQG với chỉ tiêu lạm phát. Có đại biểu đề nghị cần phân định rõ
vai trò
của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN trong việc quyết định sử dụng
các công
cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTTQG theo quy định của
Chính
phủ.
Về vấn đề lãi suất. Ðại biểu Nguyễn Ðăng Trừng (TP Hồ Chí Minh) và
một số đại
biểu đồng ý như dự thảo Luật là không quy định về lãi suất cơ bản
(LSCB), NHNN
điều hành thị trường tiền tệ bằng các công cụ chính sách như: lãi suất
tái chiết
khấu, lãi suất tái cấp vốn... Các tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ thực hiện
chính
sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường. Khi có diễn biến
bất thường
trên thị trường tiền tệ, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng
trong
quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan
hệ tín
dụng khác. Ðại biểu Cao Sỹ Kiêm (Thái Bình) phân tích, bình thường,
những năm
trước đây NHNN không can thiệp trực tiếp vào hoạt động lãi suất của các
ngân
hàng thương mại, nhưng trong trường hợp bất bình thường, có những biểu
hiện
không lành mạnh trong hoạt động thị trường tiền tệ thì NHNN phải can
thiệp vào
thị trường tiền tệ thông qua lãi suất do NHNN chỉ đạo để các ngân hàng
thương
mại làm căn cứ thực hiện, nếu không sẽ rối loạn thị trường tiền tệ. Do
đó, phải
hiểu lãi suất khác quy định trong Khoản 1, Ðiều 12 dự thảo Luật: "NHNN
công bố
lãi suất tái cấp vốn và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách
tiền tệ"
đã có LSCB, đồng thời phải giữ nguyên Khoản 2, Ðiều 12 "Trong trường hợp
thị
trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành
lãi suất
áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan
hệ tín
dụng khác". Như vậy, vừa bảo đảm được tính ổn định của luật, phù hợp
thông lệ
quốc tế và theo nguyên tắc hoạt động của thị trường, vừa có điều kiện
giải quyết
việc quản lý của NHNN trong điều kiện thị trường tiền tệ bất ổn. Ðại
biểu Trần
Du Lịch (TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Bình (Hải Phòng) cũng cho rằng,
điều tiết
lãi suất trong điều kiện bình thường phải theo thị trường, quan hệ cung
cầu,
không thể dùng biện pháp "hành chính" đề kìm hãm thị trường tiền tệ, trừ
trường
hợp thị trường có diễn biến bất thường. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị
cần
tiếp tục sử dụng công cụ LSCB để bảo đảm nguyên tắc Nhà nước quản lý đối
với thị
trường tiền tệ và làm cơ sở cho việc thực hiện các quy định của Bộ luật
Dân sự
và các văn bản pháp luật khác. Sau khi nêu dẫn chứng việc đổ vỡ tín dụng
những
năm trước đây, đại biểu Lê Thị Thu Ba (Ðồng Nai) đề nghị cần quy định
theo hướng
thường xuyên phải có LSCB, vì không chỉ góp phần giữ vững ổn định tiền
tệ mà còn
chống được nạn cho vay nặng lãi. Nếu bỏ LSCB sẽ làm rối loạn thị trường
tiền tệ
vì các TCTD sẽ lợi dụng, tùy tiện định mức lãi suất cho vay rất cao. Ðại
biểu
Phan Trung Lý (Nghệ An) đề nghị cần tổng kết thực tiễn trước khi quyết
định có
bỏ LSCB hay không.
Nhiều đại biểu lại tán thành với dự thảo Luật là Thủ tướng quyết
định việc sử
dụng dự trữ ngoại hối Nhà nước cho các nhu cầu đột xuất, cấp bách của
Nhà nước.
Trường hợp sử dụng DTNH Nhà nước dẫn đến thay đổi dự toán ngân sách thì
thực
hiện theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Các đại biểu: Trần Thị
Dung
(Ðiện Biên), Trần Ðình Long (Ðác Lắc) cho rằng, cán bộ, công chức NHNN
cũng như
cán bộ, công chức bình thường, phải thực hiện sự điều chỉnh của Luật Cán
bộ,
công chức, không nên có quy định riêng trong dự thảo Luật này. Ðại biểu
Lê
Việt Trường (An Giang) cho rằng, cần nghiên cứu, chỉnh sửa Khoản 1, Ðiều
38 quy
định bảo vệ bí mật thông tin về tiền tệ, ngân hàng cho thống nhất với
quy định
trong pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước. Theo đại biểu Ðinh Văn Nhã (Phú
Yên),
không nên quy định "cứng" ở Ðiều 27 về tiền gửi kho bạc Nhà nước (KBNN),
nên
chỉnh sửa theo hướng KBNN mở tài khoản tại NHNN và ngân hàng thương mại
theo quy
định của Chính phủ. Một số đại biểu cũng đồng tình với quy định về giám
sát,
thanh tra ngân hàng trong dự thảo luật vì đây là một lĩnh vực đặc thù.
Buổi chiều, các đại biểu QH làm việc tại tổ, thảo luận về chủ
trương đầu tư
xây dựng Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-TP Hồ Chí Minh. Nhiều đại biểu
phát biểu
ý kiến cho rằng, về lâu dài, việc đầu tư xây dựng đường sắt cao tốc Hà
Nội
- TP Hồ Chí Minh song song với việc nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống
đường sắt
hiện có là rất cần thiết. Việc phát triển đường sắt hiện đại, đồng bộ,
bảo đảm
hoạt động giao thông đường sắt thông suốt, an toàn, chính xác và hiệu
quả, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ
môi
trường là phù hợp với chính sách của Ðảng và Nhà nước ta. Có ý kiến nhận
định,
đến bây giờ Việt Nam mới nghĩ đến việc hiện đại hóa đường sắt là muộn.
Tuy
nhiên, cũng có đại biểu cho rằng, việc xây dựng đường sắt cao tốc chỉ
được thực
hiện khi đất nước đang trong giai đoạn phát triển với hệ thống giao
thông, cơ sở
hạ tầng tương đối hiện đại.
Tờ trình của Chính phủ nêu 4 phương án đầu tư đường sắt trên trục
dọc bắc -
nam, trong đó Chính phủ kiến nghị chọn phương án 4. Thảo luận về vấn đề
này, có
ý kiến nhất trí với phương án như Chính phủ đề nghị, vì việc đầu tư mới
theo
hướng hiện đại là cần thiết, đáp ứng được nhu cầu vận chuyển sau này và
góp phần
tích cực phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, có đại biểu đề
nghị
xem xét lựa chọn phương án nâng cấp tuyến đường sắt hiện tại để đáp ứng
nhu cầu
vận tải, sau đó khi đủ điều kiện sẽ phát triển thành đường sắt cao tốc.
So với
phương án 4 Chính phủ đề nghị thì phương án này sẽ giải quyết được cả
việc vận
chuyển hành khách và hàng hóa vì vận chuyển hàng hóa cũng rất quan trọng
và cần
thiết, chi phí ban đầu thấp hơn, không gây áp lực lớn về vốn đầu tư và
sẽ khả
thi hơn.
Tổng mức đầu tư của Dự án sơ bộ được xác định là gần 56 tỷ đô-la Mỹ
(USD),
suất đầu tư bình quân vào khoảng 35,6 triệu USD/1 km. Về vấn đề này, có ý
kiến
cho rằng, với việc xây dựng chủ yếu là hầm, cầu cạn, cầu vượt sông, cầu ở
các
nút giao với đường bộ thì tổng mức đầu tư sẽ vượt xa so với dự kiến. Hơn
nữa,
nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nói chung trong thời
gian
tới cũng rất lớn. Có đại biểu nêu rõ, với tổng mức đầu tư của Dự án
riêng cho
giai đoạn đầu là 21 tỷ USD, thì mỗi năm bình quân cần tới 2,63 tỷ USD,
phụ thuộc
chủ yếu (khoảng 2/3) vào vốn vay nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay nợ
nước
ngoài của Việt Nam vào khoảng 38,9% GDP, nợ Chính phủ đã ở mức hơn 42%
GDP, tích
lũy nội địa và dự trữ ngoại tệ thấp thì việc vay thêm để đủ vốn đầu tư
cho Dự án
này sẽ làm gánh nặng nợ quốc gia tăng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, Báo cáo đầu tư của Dự án chỉ thiên
về phân
tích các lợi thế cho việc lựa chọn phương án 4. Vì vậy, đề nghị Chính
phủ cung
cấp thêm thông tin so sánh lợi thế giữa các phương án để có đủ cơ sở
quyết định,
đồng thời làm rõ việc đầu tư xây dựng mới đường sắt cao tốc thì phương
án đầu
tư, nâng cấp tuyến đường sắt hiện có sẽ như thế nào, chức năng vận
chuyển và mối
liên hệ giữa tuyến đường sắt hiện có với đường sắt cao tốc khi đi vào
khai
thác.
Một số ý kiến nhất trí lựa chọn công nghệ động lực phân tán đối với
đường sắt
cao tốc ở nước ta. Tuy nhiên đề nghị Chính phủ phân tích cụ thể, chi
tiết hơn về
ưu điểm, nhược điểm của hai loại công nghệ này để thấy rõ ưu thế của
việc lựa
chọn công nghệ động lực phân tán. Hơn nữa, lựa chọn công nghệ cần tuân
thủ
nguyên tắc hiện đại, hiệu quả, an toàn, không lệ thuộc, tiến tới làm chủ
công
nghệ.
Theo Báo cáo đầu tư Dự án, ước tính có 16.529 hộ gia đình sẽ bị ảnh
hưởng bởi
dự án, trong đó 9.480 hộ gia đình sẽ bị ảnh hưởng do mất đất ở và 7.049
hộ gia
đình sẽ bị ảnh hưởng do mất đất sản xuất. Báo cáo cũng dự trù việc đền
bù cho
những hộ gia đình nói trên. Về vấn đề này, có đại biểu nêu rõ, Tờ trình
của
Chính phủ cũng như Báo cáo đầu tư đề xuất phương án di dân còn rất sơ
bộ, cần
tiếp tục xây dựng phương án thật cụ thể, tính toán đến tính phức tạp của
công
tác này. Ðặc biệt là, đối với những địa phương hiện đã không còn quỹ đất
dự trữ
để quy hoạch đô thị. Báo cáo đầu tư dự kiến tổng chi phí giải phóng mặt
bằng và tái định cư là 30.437 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế sẽ phải lớn
hơn nhiều
bởi còn chi phí đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ dân mà Dự án
chưa
tính đến. Có đại biểu nêu giải pháp, để giảm phức tạp, giảm chi phí cho
công tác
di dân, đền bù, nên chọn hướng tuyến phù hợp hơn.
Một số đại biểu cho rằng, Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo đầu tư
chưa phân
tích những khả năng xảy ra rủi ro đối với hiệu quả kinh tế của Dự án do
thời
gian dự kiến thực hiện rất dài, với những biến động khó lường. Ðó là
những rủi
ro trong quá trình xây dựng dẫn tới tăng vốn đầu tư vì tăng khối lượng
và đơn
giá xây dựng cơ bản, phát sinh những vấn đề liên quan đến thiết kế, biến
động về
tỷ giá, giá cả, thị trường... Vì vậy, đề nghị Chính phủ cần lượng hóa
tác động
của những rủi ro này cũng như đánh giá mức độ nhạy cảm của các chỉ tiêu
kinh tế
ảnh hưởng tới Dự án để đánh giá mức độ rủi ro khi quyết định đầu tư.
Nhiều đại biểu QH đề nghị, các Ủy ban khác của QH cần tham gia đánh
giá, thẩm
tra tính khả thi của dự án này, nếu cần có thể lấy ý kiến góp ý của các
nhà khoa
học và trưng cầu ý kiến của nhân dân để làm cơ sở cho QH quyết định về
chủ
trương.
(Theo Nhandan.org.vn)