Trên thực tế, sự hợp tác giữa hai nước đã được bắt đầu từ trước khi bình
thường
hóa với những cam kết và thiện chí của Việt Nam trong vấn đề tù nhân
chiến tranh
và tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA). Thái độ
thiện chí
và tích cực của Việt Nam đã giúp xóa bỏ những ngờ vực, củng cố lòng tin
giữa hai
nước, tạo đà cho những bước phát triển mạnh mẽ sau này của mối quan hệ
song
phương.
Tháng 7/1993, Mỹ bỏ lệnh cấm các khoản vay song phương và đa phương dành
cho
Việt Nam, mở đường cho Việt Nam tiếp cận các khoản vay tài chính nước
ngoài.
Tiếp đó, tháng 2/1994, sau khi được Thượng viện Mỹ thông qua, Tổng thống
Clinton
tuyên bố bỏ lệnh cấm vận thương mại kéo dài nhiều năm đối với Việt Nam.
Gần một
năm sau, hai nước bắt đầu mở văn phòng liên lạc trước khi đi đến chính
thức bình
thường hóa quan hệ và mở đại sứ quán tại mỗi nước.
Các chuyến thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao hai bên diễn ra
thường
xuyên sau đó.
Ngay trong năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ Warren Christopher trở thành ngoại
trưởng
Mỹ đầu tiên thăm chính thức Việt Nam.
Ở cấp cao nhất, tháng 11/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton thăm chính
thức Việt
Nam.
Người kế nhiệm của ông, Tổng thống George W. Bush cũng đến Hà Nội vào
năm 2006.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng thực hiện các chuyến thăm và làm việc tới
Mỹ. Thủ
tướng Phan Văn Khải thăm Mỹ tháng 12/2005, Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết thăm
Mỹ tháng 6/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Mỹ tháng 6/2008 và tháng
4/2010.
Các nhà lãnh đạo hai nước cũng thường xuyên có các cuộc tiếp xúc tại các
diễn
đàn đa phương, mới đây nhất là cuộc trao đổi giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng và
Tổng thống đương nhiệm Barack Obama bên lề Hội nghị thượng đỉnh các nền
kinh tế
phát triển và mới nổi (G-20) tại Canada.
Cùng với sự phát triển của quan hệ chính trị là sự mở rộng không ngừng
của quan
hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước.
Năm 1995, kim ngạch thương mại song phương mới chỉ đạt 450 triệu USD,
nhưng đến
năm 2000, con số này đã tăng lên xấp xỉ 1,2 tỷ USD.
Thời điểm có tính đột phá là năm 2001 khi Hiệp định thương mại song
phương (BTA)
được thông qua và có hiệu lực.
Năm 2009, kim ngạch thương mại hai nước đã lên tới trên 15 tỷ USD, cao
gấp 10
lần so với năm 2001. Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam và
là đối tác thương mại lớn thứ ba tính theo tổng giá trị giao dịch. Năm
2009, Mỹ
trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam.
Hợp tác giáo dục cũng là một điểm sáng trong quan hệ giữa hai nước. Vào
thời
điểm bình thường hóa quan hệ, chỉ có khoảng 800 sinh viên Việt Nam theo
học tại
Mỹ. Thế nhưng, con số này hiện nay đã tăng lên 13.000 sinh viên, đứng
thứ 9
trong số các nước có sinh viên du học tại Mỹ và đứng đầu về tốc độ gia
tăng số
sinh viên theo học tại quốc gia này.
Hai nước đã thành lập Nhóm đặc trách hợp tác giáo dục vào năm 2008 với
mục tiêu
giúp cải thiện hệ thống giáo dục Việt Nam và tăng số sinh viên Việt Nam
học tập
tại Mỹ.
Sự hợp tác, liên kết đào tạo giữa các trường đại học hai nước cũng nở rộ
trong
những năm gần đây.
Trong lĩnh vực y tế, hai nước đã có những chương trình hợp tác đối phó
với dịch
bệnh. Việt Nam hiện là một trong số 15 nước trọng điểm trong Kế hoạch
cứu trợ
khẩn cấp của Tổng thống Mỹ (PEPFAR) đối phó với đại dịch HIV/AIDS.
Sự hợp tác giữa hai nước cũng được mở rộng sang cả lĩnh vực an ninh và
quốc
phòng. Các bộ trưởng phụ trách các lĩnh vực này của hai nước đã thực
hiện các
chuyến thăm lẫn nhau. Đặc biệt, lần đầu tiên hai nước đã thiết lập một
cơ chế
đối thoại chiến lược về chính trị-an ninh-quốc phòng, trao đổi về các
vấn đề như
tình hình an ninh khu vực và toàn cầu, chống phổ biến vũ khí giết người
hàng
loạt, chống khủng bố, phòng chống ma túy và tội phạm xuyên quốc gia, cứu
trợ
thiên tai, an ninh trên biển, tìm kiếm và cứu nạn, thực hiện các chuyến
thăm của
tàu hải quân và hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế.
Trong các vấn đề mà hai nước còn nhiều khác biệt như nhân quyền, tôn
giáo, hai
nước đã và đang tiếp tục các cuộc trao đổi thẳng thắn. Thái độ cởi mở,
sẵn sàng
trao đổi của phía Việt Nam đã được các quan chức Mỹ và các cá nhân, tổ
chức liên
quan ghi nhận và đánh giá cao.
Để có được mối quan hệ phát triển như hiện nay, không thể không kể đến
sự đóng
góp của nhân dân hai nước. Chính sự giao lưu, trao đổi, thăm viếng lẫn
nhau và
hoạt động ngoại giao "kênh 2" đã giúp hai nước có sự hiểu biết nhiều hơn
về văn
hóa, xã hội và thể chế của nhau. Tiếng nói của người dân được lắng nghe
cả ở hai
phía đã góp phần tích cực vào quá trình hoạch định chính sách của mỗi
quốc gia.
Ở thời điểm năm 1995, ngay cả những người lạc quan nhất cũng khó có thể
tưởng
tượng quan hệ Việt-Mỹ sẽ đạt được những thành tựu như ngày nay. Quan hệ
Việt-Mỹ
sau 15 năm đã chứng minh rằng đối thoại và hợp tác có thể hóa giải những
bất
đồng, khác biệt trong quan hệ quốc tế và có thể mang lại lợi ích cho tất
cả các
bên.
Với những gì đã đạt được, cùng với quyết tâm và thiện chí của cả hai
bên, có thể
tin tưởng rằng quan hệ Việt-Mỹ sẽ tiếp tục phát triển, đạt được những
mục tiêu
xa hơn trong những năm tiếp theo trên tinh thần bình đẳng, hợp tác và
tôn trọng
lẫn nhau, không chỉ phục vụ cho lợi ích của mỗi nước, mà còn đóng góp
tích cực
cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực cũng như trên thế
giới./.
(Theo vietnamplus.vn)