Nhà văn lúc này phải sống như thế nào
để viết lên những tác phẩm làm rung động tâm hồn người đọc, để chống
lại cái ác và bảo vệ những vẻ đẹp ngập tràn nhân văn trong đời sống con
người?
Câu hỏi đó có lẽ là câu hỏi lớn nhất
của nhà văn Việt Nam chứ không phải bất kỳ câu hỏi nào khác.
Nhân dịp Đại hội Nhà văn Việt Nam
chuẩn bị diễn ra ở thủ đô Hà Nội vào đầu tháng Tám, Tuần Việt Nam xin
giới thiệu một số chân dung nhà văn Việt Nam qua những trang viết của
nhà thơ, nhà báo Nguyễn Quang Thiều. Họ là những nhà văn đã để lại trong
lòng bạn đọc những ấn tượng khó quên.
Sự im lặng của nỗi buồn
Đã quá lâu rồi ông không cầm bút viết
văn nữa. Đôi khi ông có viết về một người bạn văn chương nào đó đã
khuất. Với ông đó chỉ là những dòng của người còn sống trên dương gian
nhớ người đã vắng bóng. Viết như một cuộc trò chuyện với hư vô. Những
cuộc trò chuyện ấy cũng không làm ông cạn hết nỗi buồn.
Làm sao mà cạn hết nỗi buồn nhân thế khi
người ta còn sống. Giờ đây, trong ngôi nhà nhỏ ở ngõ Hạ Hồi, một căn
phòng với nhiều đồ cổ, gương mặt ông, tuổi tác ông, giọng nói ông và con
người ông thật hợp với những cổ vật này. Một khoảng thời gian quá dài
đã đi qua những cổ vật kia và thời gian của gần một thế kỷ đi qua ông.
Tôi thấy ông như một cổ vật còn sống và đang cất giọng nói về thời gian
đã làm nên ông.
Ông không viết văn lâu rồi, nhưng những
gì ông viết của mấy chục năm về trước vẫn được không ít bạn đọc tìm đọc
với những lý do khác nhau, vẫn được giảng dạy và vẫn được học sinh làm
bài thi. Sao ông lại không viết văn nữa? Sao ông lại im lặng từ mấy chục
năm trước và sẽ im lặng hết cuộc đời. Ông nói với tôi lý do sự im lặng
ấy. Và bởi sự im lặng ấy mà giờ đây tôi cũng im lặng không viết ra.
Nhưng cái mốc ông ngừng viết văn là từ khi ông công bố cái chuyện Con
chó xấu xí. Ông thở dài và nói rằng khi người ta đã nhận mình là
con chó xấu xí rồi thì biết làm gì nữa đây.
 |
Nhà văn Kim Lân cùng tiểu thuyết Vợ nhặt của ông, Ảnh blog
nguyenthilinh |
Ông bắt đầu xuất hiện trên văn đàn khi mới ngoài hai mươi tuổi.
Ông bảo lúc đó ông viết cứ bắt chước người này lại đến người khác. Viết
như thế thì viết cả đời cũng không tả đúng cái mặt của mình. Nếu anh
không là chính anh thì anh chẳng bao giờ là ai cả. Thế rồi, tờ báo Trung
Bắc Chủ nhật làm một số chuyên đề về vợ lẽ. Thế là ông viết về Vợ lẽ
và ngay lập tức truyện của ông thành công.
Ông bảo vì ông là con của một người vợ
lẽ. Cụ thân sinh ra ông lấy những ba vợ. Ngày ấy nhiều người đàn ông có
vợ lẽ lắm. Xã hội lúc đó nó thế. Bây giờ đàn bà tự do quá và ghê gớm
quá. Thời gian đã cho họ quá nhiều mặc dù chế độ một vợ một chồng là nhẽ
đương nhiên trong xã hội văn minh.
Cũng từ ngày đó, ông chỉ viết những gì
ông hiểu, những gì ông khổ đau và thương nhớ. Thế là gương mặt văn
chương của Kim Lân hiện ra sống động và đầy ấn tượng mà ai đã nhìn thấy
sẽ chẳng dễ quên. Rồi đến một ngày, ông thấy ông không thể cứ lấy gương
mặt riêng biệt của mình mà đi đâu cũng được, làm gì cũng được. Bởi trong
cuộc đời này, nhiều lúc miệng mình đấy mà cái cười lại của người khác.
Mắt mình đấy mà lệ rơi vào lại từ đẩu từ đâu. Tay mình đấy lại cầm cái
mình không muốn cầm. Chân mình đấy mà lại đi vào cái ngõ mình không định
bước. Đúng là sống mới thực là khó. Trong khi đó nhiều người lại ngỡ
chết khó hơn.
Thế là ông chán viết. Rồi ông bỏ bút
hẳn. Bỏ lâu thành thói quen. Có lúc trong đầu muốn viết một cái gì đó
lại ngại. Ngại cái cụ thể và ngại cả những mơ hồ. Tôi hỏi ông cụ thân
sinh khi còn sống thường dạy ông điều gì về cuộc đời. Ông bảo cụ cứ sống
như cụ nghĩ và yêu thương ông nhưng chẳng dạy ông điều gì cả. Tất cả
những gì ông học được là do làng ông dạy ông.
Câu nói này sẽ không ít người nghe thấy
sẽ chê ông sao lại nói về cha mình không dạy con. Cha mình sinh ra mình
mà chẳng dạy mình điều gì sao (?). Nhưng ông nói vậy thì quả là uyên
thâm. Làng chính là văn hoá. Văn hoá luôn luôn đúng và sẽ dạy con người
phải làm gì. Lầm lỗi thì văn hoá dạy để mà đứng lên. Tuyệt vọng thì văn
hoá dạy để mà hy vọng. Thô tục thì văn hoá dạy cho cái đẹp. Tăm tối thì
văn hoá dạy cho mơ ước.
Chiều mùa đông chóng tối. Tôi thích nhìn
ông trong căn phòng tranh tối tranh sáng như thế. Khi ông đứng dậy lấy
phích nước cho thêm vào bình trà tôi thấy những cổ vật trong nhà ông
cũng chuyển động như ông. Tất cả mọi chuyển động của ông, của những cổ
vật là sự chuyển động của thời gian.
Tôi hỏi ông đã viết hồi ký chưa. Ông im
lặng một lát rồi nói ông không viết hồi ký bởi viết hồi ký thì nhiều
chuyện quá. Hồi ký là sự thật. Mà sự thật lại thường đau đớn. Những gì
ông đã quyết im lặng mấy chục năm rồi thì nay cứ để cho mãi mãi nằm
trong im lặng.
Là một nhà văn, không sáng tác trong mấy
chục năm giờ lại không viết cả hồi ký nữa thì ông sống thế nào? Cái gì
sẽ làm cho ông vui, cho ông khuây khoả tuổi già? Ông bảo ông cứ chơi
nhung nhăng để cho vui, cho đỡ buồn. Nhiều năm trước ông có đóng phim.
Mấy năm trước người ta thấy ông trên tivi bàn về văn hoá trà. Tất cả
cũng là chơi thôi mà. Với ông, chơi là cách tốt nhất để ông chạy trốn.
Mà chạy trốn ai? Ai đuổi ông? Ai truy lùng ông? Chẳng ai cả. Tôi chạy
trốn chính tôi. Chạy trốn chính mình là cuộc chạy trốn khó khăn nhất,
lâu dài nhất và cuộc chạy trốn ấy chỉ kết thúc khi người ta bước vào
giữa lâu đài của cái chết.
 |
Nhà văn Kim Lân, Ảnh Nhân dân |
Tôi nói với ông có hai loại người: loại thứ nhất càng sống nhiều
càng buồn. Loại thứ hai càng sống nhiều càng thanh thản. Cả hai loại
người này đều là những người hiểu được lẽ đời. Loại thứ nhất buồn vì
thấy đời sống này sao nhiều đau khổ và vô nghĩa thế mà mình thì bất lực.
Loại thứ hai thấy cần thanh thản để quên đi những đau khổ và vô nghĩa
kia.
Ông bảo ông là loại người thứ nhất. Cái
truyện ngắn cuối cùng trong đời ông đã chuẩn bị đầy đủ nhưng rồi ông
không viết. Tôi nghe ông kể truỵện ngắn ấy mà thấy tiếc. Truyện ngắn ấy
dài lắm nhưng tôi nhớ đại khái kể về một người đàn ông câm. Người đàn
ông câm này nuôi một con chó. Tất cả những người sống quanh anh ta nhưng
chẳng ai hiểu anh ta nói gì, nghĩ gì kể cả người mẹ đẻ ra anh ta. Duy
chỉ có con chó là hiểu được anh. Cả hai đều không nói được cái tiếng mà
những người quanh họ vẫn nói. Nhưng họ lại vô cùng hiểu nhau bởi cả hai
có chung một ngôn ngữ khác.
Khi người ta mở chiến dịch giết chó. Con
chó của người đàn ông câm kia bị người ta đuổi bắt. Nó chạy tới mép
rừng. Chỉ dăm bước chân nữa là nó thoát chết. Đúng lúc đó người đàn ông
câm cất tiếng kêu như một tiếng tru. Con chó dừng lại. Nó chạy quay về
và bị giết chết. Nó thừa biết những người đang hò hét tiếng người kia sẽ
giết nó. Nhưng nó không thể bỏ đi trước tiếng kêu đau khổ của người
bạn, người duy nhất đã thấu hiểu nó.
Tôi hỏi ông sao ông lại không viết cái
truyện ấy? Ông bảo ông đã nói nhiều lý do vì sao không viết nhưng lý do
thật ông lại chẳng muốn nói ra. Đã không nói rồi thì đến chết cũng
không nói nữa. Nhưng không nói ấy cũng là nói rồi.
Tôi nghe câu chuyện người đàn ông câm và
con chó mà lòng buồn vô hạn. Ông bảo con người đáng trọng là con người
không thay đổi tình bạn kể cả khi anh ta rơi vào hoàn cảnh bi đát. Thế
mà có những người là bạn ông khi có tí quyền chức thì trở nên lạnh nhạt
và hống hách với cả bạn bè. Từ đó, ông không bao giờ đến thăm và trò
chuyện như xưa với người ấy nữa. Nhưng khi người ấy nghỉ hưu không mấy
ai đến nữa thì ông lại đến.
Ông đến và gọi tên người ấy như thủa hàn
vi, như chưa bao giờ nghĩ khác về người ấy. Bởi người ấy cũng chỉ là
một nhân vật bé nhỏ trong một cảnh ngắn của vở kịch bi hài vô tận của
cuộc đời này. Người ấy đã hiểu ra thói đời và nghĩa đời dẫu rằng đã
muộn. Người ấy nhìn ông mà nước mắt giàn dụa. Nhưng người ấy lại nói:
Mắt mình hồi này cứ hay chảy nước mắt vô cớ. Thực ra là người ấy khóc vì
xúc động và khóc cả vì đắng cay. Nhưng để nói thật ra là mình đang khóc
và khóc vì sao đâu phải lúc nào và đối với ai cũng dễ.
Năm nay ông đã tám mươi tư tuổi. Ông bảo
bao nhiêu thứ ông quên và cố tình quên giờ ông muốn tìm lại. Nhiều
truyện ngắn ông viết bởi cái nhất thời, bởi sự ấu trĩ ông đã quyết quên
đi từ lâu lắm rồi. Nhưng giờ đây ông lại muốn tìm lại những cái cũ ấy.
Bởi theo ông, dù thế nào đi chăng nữa thì những cái đó cũng là của ông.
Đã là cái mình viết ra dù không hay, dù
viết chỉ để mà viết hoặc viết cho một ai đấy chứ chẳng phải cho mình thì
vẫn cứ là của mình. Cái đúng là của mình và cái sai cũng là của mình.
Đã có lúc ông chẳng hề nghĩ ông sẽ làm tuyển tập, mà có nghĩ đến ông
cũng không muốn làm. Giờ thì ông muốn làm tuyển tập. Làm chẳng phải là
để cho hậu thế đọc đâu. Làm để cho chính ông có dịp đọc lại toàn bộ
những gì mình viết. Để từ đó mà suy ngẫm về mình hơn nữa. Đọc để một
Kim Lân tám mươi tư tuổi được đối thoại với một Kim Lân năm mươi tuổi,
một Kim Lân bốn mươi tuổi... Đọc để vò đầu mà than: Kim Lân, người quả
có một thời không phải chính người. Đọc để vỗ đùi kêu lên: Kim Lân, ông
thực không hổ danh. Làm được như vậy trong một cuộc đời hỏi còn gì phải
ân hận nữa.
Bây giờ tôi thực sự tin rằng: ông là kẻ
biết rong chơi trên trần thế này. Cái danh đối với người nước Nam ta
thật ghê gớm. Cái danh nhà văn đối với nhiều người còn ghê gớm hơn. Bảo
mình là chủ tịch huyện, chủ tịch tỉnh có khi chẳng oai bằng bảo mình là
nhà văn. Ông là nhà văn đích thực nhưng dám đùa bỡn với cái danh ấy.
Ông trọng đời hơn trọng văn. Ông là
người sống kỹ hơn là viết. Bởi như ông nói có trang viết của ông không
phải là ông, nhưng ai cũng nói ông luôn luôn sống đúng ông. Trong khi
nhiều nhà văn viết thì ra vẻ là kỹ nhưng sống lại ẩu. Sống kỹ thì mới
viết kỹ được chứ. Sống kỹ theo tôi là dám sống đúng mình nhất. Nếu ai đó
nói ông không viết vì lười thì hoàn toàn sai. Bởi cái động tác cầm bút
nhiều hay ít đâu phải là chăm hay lười. Cái công việc của nhà văn khó
khăn nhất vẫn là sự quan sát và suy ngẫm không ngừng cuộc sống này.
Ông là người cho đến lúc này vẫn quan
sát cuộc sống một cách sắc sảo và suy ngẫm hết sức sâu xa. Những suy
ngẫm ấy đã không ngừng dày vò ông và bắt ông phải trả lời những câu hỏi
về cuộc sống. Càng suy ngẫm nhiều thì dày vò càng lớn. Nhưng phẩm cách
của một nhà nho có quá nhiều trong con người ông. Phẩm cách ấy có lúc
làm ông trở nên yếm thế. Ông là kẻ ở ẩn mấy chục năm nay ở ngay nơi mà
người ta không tin con người có thể ở ẩn được. Bởi nơi ấy quá ồn ào và
nhiều cám dỗ. Ông không về quê như Nguyên Hồng. Ông cũng không lên rừng
như Sao Mai. Ông ở ẩn ngay trong chính sự im lặng của ông, sự im lặng
của nỗi buồn muôn thuở.