Bảo tàng của Học viện Viễn đông Bác cổ tại Việt Nam
Báo cáo của Giám đốc
Louis Finot ngày 1/2/1900 gửi Toàn quyền Đông Dương về hoạt động của
Phái đoàn Khảo cổ Thường trực tại Đông Dương trong năm 1899 khẳng định:
Bảo tàng của Phái đoàn Khảo cổ Thường trực tại Đông Dương (sau này là
EFEO) phải là bảo tàng của Đông Dương, có nghĩa là tập hợp những gì cho
việc nghiên cứu nền văn minh Đông Dương.
Bảo tàng gồm hai bộ
phận: Khảo cổ và dân tộc. Bộ phận bảo tàng khảo cổ tiếp nhận những tác
phẩm điêu khắc thuộc các công trình đã bị phá hủy hoàn toàn, các tác
phẩm điêu khắc không gắn liền với một khu di tích nào đó và dễ bị mất và
các văn khắc tách rời.
Các tác phẩm điêu khắc nào mà cần thiết
cho việc nghiên cứu có thể cho các kỹ thuật viên bản xứ đã được đào tạo
đúc lại theo bản gốc. Bộ phận bảo tàng dân tộc phải phản ánh trung thực
nhất và đầy đủ nhất trạng thái xã hội của các tộc người ở Đông Dương.
Các hiện vật có thể dưới dạng nguyên gốc như quần áo, vũ khí, đồ trang
sức, nhạc cụ, đồ thờ cúng..., cũng có thể được thu nhỏ lại theo ước định
như nhà cửa, xe cộ, dụng cụ câu cá, nông cụ....
Thời gian đầu,
bảo tàng của EFEO được đặt tại tầng hầm của trụ sở của EFEO tại 140
đường Pellerin, Sài Gòn (nay là đường Pasteur, TP.HCM) và trong góc vườn
Bách Thảo Sài Gòn.
 |
Bảo tàng Luis Finot hay Trường Viễn
đông Bác Cổ Hà Nội, nay là Bảo tàng lịch sử |
Bảo tàng gồm những hiện vật còn sót lại của bảo tàng thuộc
chính quyền thuộc địa tại Sài Gòn và những hiện vật của Phái đoàn Khảo
cổ: một vài tượng điêu khắc và văn bản khắc Khmer (Bati, Sambor), một
số hiện vật đá Chàm của khu di tích Mỹ Sơn và ở Đà Nẵng, một số hiện
vật Trung Hoa và hiện vật dân tộc học. Các hiện vật này để phân tán
không được bảo quản.
Cũng trong thời gian này, vào năm 1902,
EFEO đã tham dự cuộc triển lãm được tổ chức tại Hà Nội. Ngoài những hiện
vật của bảo tàng của EFEO tại Sài Gòn như sứ Trung Quốc, đồ đồng, ngọc,
tranh vẽ... được trưng bày tại triển lãm, còn có các hiện vật của các
cá nhân như các văn bản viết tay bằng chữ Hán hay chữ Nôm, các bộ sưu
tập tiền và huân chương bằng vàng và bạc... Nhiều hiện vật sau khi
triển lãm đóng cửa đã tặng hoặc bán lại cho EFEO.
Cho tới năm
1905, các bộ sưu tập Trung Hoa và dân tộc học, các điêu khắc Chàm được
chuyển ra Hà Nội. Các điêu khắc Campuchia được chuyển về Campuchia. Một
số hiện vật đá Chàm và Khmer để lại Sài Gòn và chuyển giao cho Hội
nghiên cứu Đông Dương (Société des études indochinoises)
Trong
thời gian 50 năm có trụ sở tại Việt Nam, EFEO đã thành lập và kiểm soát
về khoa học các bảo tàng sau:
- Bảo tàng Louis Finot (nay là
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Bảo tàng đầu tiên của EFEO thành lập năm
1901, được đặt tại tòa nhà Triển lãm Quốc tế Hà Nội (Nhà đấu xảo) từ năm
1902. Năm 1908, bảo tàng được chuyển về địa điểm cũ của Phủ toàn quyền
Đông Dương, tại rue de France (nay là phố Tràng Tiền). Năm 1909 dưới sự
chỉ đạo của Henri Parmentier, bảo tàng đã được sửa chữa và được gọi là
Bảo tàng Khảo cổ và Dân tộc học Hà Nội. Những gian phụ của bảo tàng dùng
để chứa các bản văn khắc, làm phòng ảnh và để dự trữ.
Tháng
1/1926, Bảo tàng được xây dựng lại hoàn toàn theo thiết kế của kiến trúc
sư Ernest Hesbrard, người được coi là khởi nguồn cho phong cách kiến
trúc Đông Dương và là giám đốc Sở Kiến trúc và Quy hoạch Đông Dương, với
sự cộng tác của kiến trúc sư Charles Batteur thuộc EFEO.
Bảo
tàng được khánh thành vào ngày 17/3/1932, mang tên ông giám đốc đầu tiên
của EFEO Louis Finot và được coi là một trong những tác phẩm kiến trúc
đặc sắc và độc đáo của Đông Dương.
Bảo tàng Louis Finot là nơi
lưu giữ và trưng bày các hiện vật khảo cổ, lịch sử và nghệ thuật của
các nước vùng Viễn Đông từ Ấn Độ đến Nhật Bản, chủ yếu là hiện vật của
các nước Đông Dương.
Theo ông Nguyễn Mạnh Lợi, Giám đốc Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam, EFEO đã bàn giao cho Viện Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam "tất cả những thứ có ở trong ngôi nhà bảo tàng lúc bấy giờ, kể cả
kho hiện vật gồm hơn hai vạn tiêu bản là di tích thuộc lịch sử và các
nền văn hóa nghệ thuật cổ xưa của Việt Nam và một số nước Viễn Đông".
- Bảo tàng Henri Parmentier (nay là Bảo tàng Điêu khắc Chàm tại
Đà Nẵng). Các bộ sưu tập đầu tiên của bảo tàng được Charles Lemire, công
sứ Pháp ở Quảng Nam, tập hợp từ những năm 1885 -1892 và Camille Paris,
cựu viên chức bưu điện, sưu tập cho đến năm 1900. Bảo tàng đã được bổ
sung thêm bằng các sưu tập của hai vị linh mục Cadière và Durand và của
Prosper Odend’hal, sau này là thành viên của EFEO, và nhất là bằng
những hiện vật do Ban khảo cổ EFEO, do Henri Parmentier phụ trách, thăm
dò và khai quật được.
Sau khi đàm phán với Chính phủ bảo hộ ở
Trung kỳ, EFEO đã bỏ kinh phí xây dựng cho bảo tàng một tòa nhà mới.
Xây dựng xong năm 1916, nhưng do chiến tranh, phải đến năm 1918,
bảo tàng mới khánh thành, trưng bày và bảo quản chủ yếu các hiện vật
Chàm. Sau này do có thêm nhiều hiện vật do nhiều người đóng góp và những
hiện vật của các đoàn khai quật do Jean -Yves Claeys phụ trách ở Trà
Kiệu, Tháp Mâm, đòi hỏi phương cách sắp xếp hiện vật phải chặt chẽ hơn
và trụ sở phải mở rộng hơn nữa. Các hiện vật đã được sắp xếp theo địa
điểm phát hiện và theo niên đại của hiện vật.
Năm 1936, phần mở
rộng được hoàn thành và bảo tàng lấy tên người phụ trách Ban khảo cổ
đầu tiên của EFEO là Bảo tàng Henri Parmentier.
EFEO kiểm soát
chặt về mặt khoa học đối với một số bảo tàng như:
- Bảo tàng
Blanchard de la Brosse (nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM), nằm trong khuôn
viên của vườn Bách Thảo Sài Gòn, có kiến trúc mang phong cách phương
Đông, tuy không bằng được Bảo tàng Louis Finot. Được khánh thành vào
ngày 1/1/1929, mang tên viên thống đốc Nam kỳ đã kí nghị định thành lập
bảo tàng vào năm 1927. Bảo tàng trưng bày và bảo tồn các hiện vật quý
hiếm vùng Viễn Đông, đặc biệt là hiện vật nghệ thuật của Khmer được
khai quật tại Nam kỳ.
- Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Mỹ
thuật Cung đình Huế) thành lập ngày 17/8/1923 theo chỉ dụ của vị Hoàng
đế mà bảo tàng mang tên, nằm trong khuôn viên của cung thành Huế, là
một công trình kiến trúc Việt Nam.
 |
Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng
Mỹ thuật Cung đình Huế) |
Theo
Chỉ dụ ngày 24/8/1923, chức năng của bảo tàng là "sưu tập và gìn giữ
những mẫu kỉ vật quý nhất của nền nghệ thuật và kỹ nghệ Việt Nam cho các
nghệ sĩ và thợ thủ công để các thế hệ sau có thể chiêm ngưỡng được
những sản phẩm của tổ tiên".
Các hiện vật nghệ thuật đã thể
hiện đời sống xã hội, tinh thần và chính trị của các tầng lớp người
Trung kỳ, chủ yếu là của vua quan triều đình Huế. Bảo tàng cũng trưng
bày một số cổ vật Chàm và các bộ sưu tập về dân tộc.
- Bảo tàng
Khảo cổ Thanh Hóa được thành lập năm 1936 theo một chỉ dụ của vua Bảo
Đại, được đặt tại tỉnh Thanh Hóa, một tỉnh có nhiều vết tích thời đại
đồng ở Việt Nam, nhất là tại khu di chỉ Đông Sơn.
Bảo tàng đã
nhận được từ Hà Nội những hiện vật đã khai quật được ở các tỉnh miền
Trung, trong đó có những bộ sưu tập trống đồng Đông Sơn quý giá cùng với
các hiện vật do Esmile Pajot, nhân viên thuế quan, cộng tác viên của
EFEO và sau đó đã là quản thủ đầu tiên của bảo tàng, cung cấp.
Ngoài ra ngày 30/4/1932, Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định xây dựng
một bảo tàng dân tộc học tại Đà Lạt và giao cho EFEO tổ chức và quản lý.
Bảo tàng này có mục đích nghiên cứu và tìm hiểu các nhóm dân tộc ở vùng
núi Bắc kỳ, Lào, Tây Nguyên và các dân tộc Việt, Campuchia, Lào...Các
hiện vật của bảo tàng đã được thu thập và gửi tại bảo tàng Louis Finot.
Nhưng rất tiếc do chiến tranh bảo tàng này chưa được xây dựng. Trong
thời gian đó, Bảo tàng Dân tộc học có tên là Bảo tàng Con người (Musée
de l’homme) được đặt trong một không gian bảo tàng Maurice Long vào
tháng 12/1938 (khu Đấu xảo, nay là Cung văn hóa Hữu nghị), là một phân
nhánh của bảo tàng Louis Finot.
Ở Campuchia có Bảo tàng Albert
Sarraut tại Phnompenh (nay là Bảo tàng Quốc gia Campuchia) thành lập
năm 1905, dành cho nghệ thuật Khmer, Bảo tàng Battambang được thành lập
năm 1930 và nhiều bảo tàng ở các địa phương như Prey, Veng, Kompong Speu
và Katie. Ở Lào cũng có một số bảo tàng do EFEO kiểm soát về mặt khoa
học như Vat Sisakhet....
Tài liệu tham khảo:
-
Desescret et Arrêtés concernant l’Ecole Francaise d’Extreme Orient (Các
sắc lệnh và nghị định liên quan tới Học viện Viễn đông Bác cổ). Hanoi,
F.H. Scheider, 1902.
- 90 năm nghiên cứu về văn hóa lịch sử
Việt Nam. Hà Nội, Nxb KHXH- EFEO, 1995.
- Charles Lemire, L’
EFEO à Hanoi (Học viện Viễn đông Bác cổ tại Hà Nội). Hanoi, 1909.
Bulletin des Amies du vieux Huế (Tập san của Hội Đô thành Hiếu Cổ), số
2, năm 1929.
- Catherine Clésmentin-Ojha, Pierre- Yves Manguin,
Un siècle pour l’Asie: L’Ecole Francaise d’Extreme - Orient, 1898 -2000
(Một thế kỷ về Châu Á: Học viện Viễn đông Bác cổ). Paris, Les Edition
du Pacifice, Ecole Francaise d’Extreme - Orient, 2010.
(Theo Bee.net.vn)