 |
Kiểm duyệt và "tự kiểm
duyệt", rào cản nào lớn hơn? Ảnh minh họa |
Liệu có phải sự e dè đó xuất phát từ nỗi lo sợ một thứ dây trói
vô hình đối với những người cầm bút? Nhưng khi sự kiểm duyệt bên ngoài
còn chưa xảy ra thì tiếc thay, sự "tự kiểm duyệt" bên trong đã khiến nhà
văn chẳng còn hào hứng khai thác và viết về những đề tài "nhạy cảm", đó
chính là "đời sống xã hội đang nóng bỏng."
Bắt được hơi thở của thời đại đã khó, chấp bút viết về những đề tài
nóng sao cho tác phẩm của mình không trở thành những bản tin thời sự lại
càng khó hơn. Thế nên, chẳng nhà văn nào muốn đứa con tinh thần mình
dành hàng năm trời thai nghén không bao giờ được ra đời, hoặc ra đời
không đúng như ý nguyện. Chi bằng không viết, hoặc viết "nhẹ đi" là an
toàn nhất.
Nhưng nếu nhìn ngược lại lịch sử văn học Việt Nam, dưới sự khắt khe
của giáo điều phong kiến, thi hào Nguyễn Du vẫn cho ra đời tập Truyện
Kiều để hôm nay chúng ta có một kiệt tác sánh ngang hàng văn chương thế
giới. Dưới sự kiểm duyệt gắt gao của chế độ thực dân Pháp, dòng văn học
1930-1945 vẫn tuôn chảy, ghi lại dấu ấn của một thời đại hỗn loạn và đau
khổ, nhưng vẫn thấm đẫm tình yêu nước...
Và không xa đây thôi, những năm "đêm trước Đổi mới" 86, khi mà những
luồng tư tưởng bảo thủ vẫn còn ngự trị, sự kiểm duyệt còn khắt khe,
nhưng xã hội vẫn phải xôn xao và thức tỉnh trước những vở kịch chính
luận của Lưu Quang Vũ, những thiên truyện ngắn, tiểu thuyết "xộc thẳng"
vào hiện thực đầy gai góc của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường,
những vần thơ nóng bỏng và da diết của Nguyễn Duy... Lớp nhà văn ấy đã
làm nên cả một dòng văn chương thời kì đầu Đổi Mới khắc ghi trong tâm
khảm bạn đọc.
Còn nay, cơ chế quản lý văn nghệ dù còn nhiều bất cập, nhưng so với
trước, đã thông thoáng hơn rất nhiều. Vậy nhà văn e ngại điều gì?
Có lẽ rào cản lớn nhất chính lại chính là sự ngại lăn lộn với những
đề tài "nhạy cảm", ngại khó, ngại khổ của nhà văn?
Nhưng nếu nhìn xa hơn, viết hay không viết, viết nông hay sâu, viết
gai góc hay hời hợt không phải là lựa chọn của cá nhân nhà văn, mà đó
còn là trách nhiệm lịch sử đã chọn và đặt vào tay người cầm bút. Nếu nhà
văn còn e dè, chưa có dũng khí để tự vượt qua chính mình, sáng tạo ra
những tác phẩm mang tinh thần và hồn cốt thời đại, thì thế hệ con cháu
chúng ta sẽ có những gì làm di sản tinh thần để dựng xây và phát triển
đất nước?
Bên cỏ dại, hoa vẫn nở, rạng ngời kiêu hãnh
Hơn bao giờ hết, tôi cho rằng dòng văn học hiện thực cần được khơi
lại. Khi những dư âm của chiến tranh đã lắng xuống, khi sự lãng mạn kiểu
mây gió trăng hoa đã không còn đủ sức hấp dẫn độc giả trong cuộc sống
vội vã và thực dụng hôm nay, thì vũ khí mà văn học cần nắm lấy là chủ
nghĩa hiện thực.
Xã hội ta đang phải trải qua buổi giao thời. Sau gần một thế kỷ,
dường như lịch sử đang lặp lại theo hình xoáy trôn ốc mà triết học đã đề
cập. Trong xã hội hôm nay không thiếu những cảnh đời ngang trái, những
thói đời gian trá, hư hỏng, thậm chí đồi bại...
Dù muốn dù không, những hố sâu ngăn cách các giai tầng đang ngày một
lớn dần, và nguy cơ hình thành những nhóm lợi ích xa rời lợi ích chung
của dân tộc đã được cảnh báo. Xã hội đầy những điều phi lý trong một
giai đoạn quá độ mà Lênin đã gọi là "những cơn đau đẻ kéo dài", đang cần
các nhà văn tạc thành diện mạo của thời đại.
Nhưng nếu chỉ có vậy thì diện mạo thời đại chúng ta đang sống sẽ chỉ u
ám? Sau gần một thế kỷ với bao nhiêu biến động, lịch sử phát triển của
một dân tộc chắc chắn khiến các nhà văn, nếu thật sự tài năng, và tâm
huyết không chỉ dừng lại ở những cái kết bi quan. Vì cuộc sống bao giờ
cũng có hai mặt: Bên cái xấu là cái tốt, bên cái thấp hèn là cái cao
thượng. Bên cỏ dại, hoa vẫn nở, rạng ngời và kiêu hãnh...
Văn học hiện thực thời hiện đại, và phẩm cách người cầm bút không
chỉ buộc nhà văn phải viết thật, phản ánh thật mà còn phải có trí tuệ
và bản lĩnh để nhìn ra ánh sáng con đường phát triển một xã hội, một dân
tộc đang trên tiến trình hội nhập.