
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 10/10, quy định chính sách
đối với người lao động dôi dư trong công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu hoặc do tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị-xã hội làm chủ sở hữu (sau đây gọi chung là công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu).
Theo điều 1 của Nghị định 91/2010/NĐ-CP, loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu được chuyển đổi từ các
công ty nhà nước, công ty thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị-xã hội theo các hình thức gồm cổ phần hóa, giao, bán; chuyển thành
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; chuyển thành đơn vị
sự nghiệp; giải thể, phá sản.
Đối tượng áp dụng Nghị định 91/2010/NĐ-CP gồm hai nhóm đối tượng là
người lao động dôi dư đang thực hiện hợp đồng lao động không xác định
thời hạn hoặc có thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng được quy định tại
điều 1 của nghị định này; và các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc
thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Nghị định 91/2010/NĐ-CP quy định người lao động dôi dư đang thực hiện
hợp đồng lao động không xác định thời hạn, nam từ đủ 55 tuổi, nữ từ đủ
50 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng
lương hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội;
Người có tuổi đời từ đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi đối với nam, từ đủ 50
tuổi đến dưới 55 tuổi đối với nữ được hưởng thêm 3 tháng tiền lương và
phụ cấp lương (nếu có) cho mỗi năm (đủ 12 tháng, không kể tháng lẻ) nghỉ
hưu trước tuổi so với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 Luật Bảo hiểm
xã hội; 5 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho 20 năm đầu làm
việc có đóng bảo hiểm xã hội, từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm làm việc
có đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp thêm 1/2 tháng tiền lương và phụ
cấp lương (nếu có).
Cũng theo Nghị định này, người lao động dôi dư đang thực hiện hợp đồng
lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng thì thực hiện
chấm dứt hợp đồng lao động và được hưởng chế độ trợ cấp 1 tháng tiền
lương và phụ cấp lương (nếu có) cho mỗi năm thực tế làm việc trong khu
vực nhà nước, không kể thời gian người lao động đã nhận trợ cấp thôi
việc, mất việc làm và thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định;
trợ cấp 70% tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) ghi trong hợp đồng lao
động cho số tháng còn lại chưa thực hiện hết hợp đồng lao động đã giao
kết, nhưng tối đa cũng không quá 12 tháng, trường hợp mức trợ cấp này
thấp hơn mức tiền lương tối thiểu chung tại thời điểm nghỉ việc thì được
tính bằng mức tiền lương tối thiểu chung.