Dự thảo quá chung chung
Tại buổi góp ý, hầu hết các đại biểu cho rằng ban hành Luật Giáo dục
đại học hiện nay là rất cần thiết trong tiến trình hoàn thiện cơ sở pháp
lý cho hoạt động giáo dục Việt Nam.
Đồng tình với nhiều nội dung trong dự thảo số 2 nhưng GS.TS Trần Ngọc
Đường, Viện nghiên cứu Lập pháp, cho rằng: “Dự thảo vẫn còn quy định
chung chung, chưa đủ cụ thể để điều chỉnh trực tiếp các quan hệ xã hội
trong tổ chức và hoạt động giáo dục đại học. Nhìn tổng thể của dự thảo
luật chưa tìm thấy được các điều luật thể hiện sâu đậm chỉ đạo việc xây
dựng dự án Luật Giáo dục đại học. Đặc biệt là các quan điểm nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo
chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục… chưa được thể hiện rõ nét.
Đặc biệt, trong quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, chưa làm rõ
nội dung vai trò của quy hoạch và nguyên tắc quy hoạch, viết như một câu
khẩu hiệu không có ý nghĩa điều chỉnh".
GS Đường dẫn giải thêm, trong mục hoạt động của sở giáo dục đại
học, gồm 5 điều nhưng có đến 4 điều giao cho Bộ trưởng Bộ GD-ĐT và Thủ
tướng quy định nên thiếu cụ thể và có tác dụng điều chỉnh trực tiếp. Các
vấn đề tuyển sinh, chương trình đào tạo và giải trình cần phải qui định
cụ thể hơn. Hoạt động giáo dục đại học mở ra rất nhiều hình thức nhưng
dự thảo luật mới chỉ có các quy định về hoạt động giáo dục theo hình
thức Chính phủ. Các hình thức giáo dục khác như: tại chức, mở rộng, học
từ xa phải bao nhiêu năm, chính sách tuyển sinh… chưa thấy có sự điều
chỉnh trong luật này.

Đồng quan điểm này, PGS.TS Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban
Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên & Nhi đồng của Quốc hội
cho hay, ban hành Luật giáo dục đại học phải được quy định cụ thể, tránh
tối đa việc ban hành những văn bản dưới luật như Nghị định, thông tư.
Mặt khác, Luật Giáo dục đại học phải có những chế tài cụ thể tạo cơ sở
pháp lý cho việc khắc phục những tồn tại hiện nay như công tác tuyển
sinh, chất lượng thấp của giáo dục thường xuyên, nhất là ở trình độ thạc
sỹ, tiến sỹ thiếu tương ứng trong quản lý, những hiện tượng học vì bằng
cấp mà không tích lũy kiến thức đang là những bức xúc của xã hội mà
nhiều năm qua chưa tạo được chuyển biến cơ bản.
GS.TSKH Nguyễn Mậu Bành, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho
hay, đọc qua nội dung trình bày trong dự thảo, người đọc có cảm giác đây
là một Luật quản lý hành chính trường đại học hơn là Luật giáo dục đại
học.
GS Bành chứng minh: Nếu là một luật quản lý nhà trường đại học thì
đâu còn thiếu các điều luật về tính chất trường, cơ cấu trường, loại
trường, tổ chức nhà trường, Hội đồng khoa học, vai trò Hiệu trưởng, Viện
trưởng, Chủ nhiệm khoa và đặc biệt là Chủ nhiệm bộ môn - một nhân tố
trong đào tạo đại học, Viện nghiên cứu, Doanh nghiệp trong nhà trường.
Nếu là Luật giáo dục ĐH thì chưa thấy tính chất nguyên lý giáo dục, yêu
cầu nội dung phương pháp giáo dục, phát triển giáo dục đại học, chưa
thấy hình bóng của giáo dục mở, học tập suốt đời, xã hội hóa giáo dục.
Xóa bỏ ngay 3 “rào cản” quyền tự chủ đại học
Ông Nguyễn Công Tạn, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, hiện quản lý
Trường ĐH Thành Tây cho rằng, vấn đề “cốt lõi” nhất phải được xác lập
trong Luật là phải xóa bỏ ngay 3 “rào cản” quyền tự chủ đại học. Thứ nhất,
xóa bỏ thi đại học như hiện nay. Hiện nay, trên thế giới, rất nhiều
nước không tổ chức thi đại học mà vẫn đảm bảo chất lượng, còn ở nước ta,
hàng chục năm nay vẫn áp dụng cơ chế thi tuyển rất nặng nề nhưng chất
lượng giáo dục đại học vẫn yếu kém. Một cơ chế quá lạc hậu, tốn kém và
đầy rẫy tiêu cực. Cần bỏ ngay cách thi đại học kiểu này mà sử dụng cách
tuyển chọn đơn giản dựa vào kết quả học tập phổ thông để xét tuyển.
Thứ hai, bỏ chỉ tiêu tuyển sinh; Thứ ba,
bỏ quy định về xin mở mã ngành, chuyên ngành. Việc cho phép về mã
ngành, chuyên ngành hiện nay là cơ chế “xin -cho” tạo điều kiện cho tiêu
cực phát sinh, phát triển.
Bãi bỏ “3 rào cản” trên đây, không cần phải thử nghiệm, không cần
phải đầu tư, được xã hội đồng tình. Thể chế tự chủ trong giáo dục đại
học Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt.
Một số ý kiến đại biểu đề nghị bỏ thi đại học.
Cùng góp ý về vấn đề tự chủ, GS Hoàng Xuân Sính, ĐH Thăng Long cho
hay: “Ở Pháp khi một ĐH muốn hợp tác đào tạo liên kết với một ĐH nước
ngoài, họ chỉ cần viết trên văn bản hợp tác của hai bên là theo Nghị
định số nào, ngày nào của Bộ GD, hiệu trưởng của họ và hiệu trưởng của
trường đối tác quyết định hợp tác về các mặt giảng dạy và nghiên cứu hay
như ở Mỹ, họ đòi hỏi đối tác phải đưa ra văn bản chứng nhận của cơ quan
làm accreditation cho các ngành mà mình muốn hợp tác, đưa ra rồi thì
hai bên ký văn bản hợp tác, gọn nhẹ chỉ có vậy. Còn ở Việt Nam, Bộ GD-ĐT
đưa ra một đống giấy tờ, trong đó ông hiệu trưởng của phương trời xa
phải điền vào đó vốn của đại học là bao nhiêu, nhân viên có bao nhiêu,
giáo sư thế nào, các ngành dạy có bao nhiêu, chương trình thế nào và làm
đơn xin Bộ Giáo dục Việt Nam làm đối tác với trường ở bên này. Có lẽ
vấn đề này phải được nghiên cứu nghiêm chỉnh, vì việc liên kết đại học
với nước ngoài là một yếu tốt không thể thiếu được cho các trường ĐH
Việt Nam”.
Nói về tự chủ tài chính, theo GS Sính, với các trường ĐH công thì
phải rút kinh nghiệm tự chủ tài chính của các trường tư vì sự tự chủ tài
chính của trường tư dẫn tới nhiều khi đường lối giáo dục và khoa học
không được bảo đảm vì nhà đầu tư muốn có lợi ích trước mắt. Nếu để
trường công tự chủ càng ngày càng nhiều về tài chính sẽ dẫn đến tư nhân
hóa, việc đầu tư cho đào tạo và nghiên cứu khoa học cơ bản sẽ không được
bảo đảm vì lợi ích trước mắt.
(Theo Dantri.com.vn)