Thứ năm, 21/04/2011 08:48
Vị vua đầu tiên viết chiếu nhận lỗi với dân
Lịch sử Việt Nam trải hàng ngàn năm phát triển với hơn 100 đời vua nối nhau trị vì. Có nhiều câu chuyện kỳ thú, khó tin liên quan đến các vị vua nước Việt mà không mấy người biết được.
Trần Anh Tông bị ném vỡ đầu
Trần Anh Tông là vị vua thứ 4 của nhà Trần, ở ngôi 21 năm (1293 -
1314), được sử sách đánh giá là “khéo nối chí giữ nghiệp, cho nên đất
nước được thái bình, chính trị tốt đẹp, văn vật, chế độ dần thịnh lên,
cũng là bậc vua tốt của triều Trần” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Để tiếp cận với đời sống nhân dân, vua Trần Anh Tông thường đi vi hành
và có lần ông đã bị ném vỡ đầu. Sử cho biết như sau: “Vua thích vi
hành, cứ đêm đêm lại lên kiệu cùng với hơn chục thị vệ đi khắp trong
kinh kỳ, gà gáy mới trở về cung. Có đêm ra đến quân phường bị bọn vô
lại ném gạch trúng vào đầu vua. Người theo hầu thét lên: kiệu vua đấy;
bọn chúng biết nhà vua mới tan chạy cả. Một hôm thượng hoàng thấy đầu
vua có vết thương, vặn hỏi, vua cứ thú thực mà thưa. Thượng hoàng giận
dữ hồi lâu” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Vua Tự Đức thi văn đỗ hạng... bét
 |
Vua Tự Đức |
Là người thông minh, giỏi văn, hay
chữ nên hoàng đế thứ 4 của triều Nguyễn là Tự Đức rất tự cao tự đại mặc
dù bề ngoài luôn tỏ ra khiêm tốn. Có lần vua nói: Trẫm không đi thi
nhưng nếu đi thi nhất định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên.
Thấy mọi người không có vẻ tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra một cách, ông
cùng một số vị đại khoa làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua
Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ thế nào mình cũng đỗ
đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối; trong bài của ông có lời
phê rằng: “Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách,
không phải là người thường nhưng là người không có tài mấy!”.
Lý Nam Đế từng là một chú tiểu
Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn) là người lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa năm Tân Dậu (541) lật đổ chính quyền đô hộ, xây dựng một
chính quyền tự chủ của nhà nước Vạn Xuân, ông xưng đế và trở thành vị
Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Lý Bí xuất thân trong một gia đình “đời đời là hào hữu”, cha là Lý Toản,
tù trưởng bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oánh, người Ái Châu (nay là Thanh Hóa).
Là con độc nhất trong gia đình, từ nhỏ đã tỏ rõ là người thông minh,
hiểu biết, thế nhưng ông sớm phải sống trong cảnh mồ côi, khi lên 5 tuổi
thì cha mất, 7 tuổi mẹ lâm bệnh qua đời; Lý Bí được người chú ruột đón
về nuôi dưỡng. Một hôm có vị thiền sư đến làm lễ tại ngôi chùa trong
làng, tình cờ nhìn thấy Lý Bí. Ngắm dung mạo cậu bé khôi ngô, thiền sư
biết là người sau này có thể làm lên sự nghiệp. Biết hoàn cảnh đáng
thương của Lý Bí, thiền sư liền đến gặp người chú xin đem cậu bé về làm
“con nuôi cửa Phật”. Từ đó Lý Bí trở thành chú tiểu, theo Pháp tổ thiền
sư về chùa Linh Bảo ở đất Giang Xá (nay thuộc xã Đức Giang, huyện Hoài
Đức, Hà Nội).
Được vị thiền sư hết lòng dạy bảo, lại thông minh chăm chỉ nên qua hơn
10 năm đèn sách, rèn luyện, Lý Bí trở thành nhân vật thiên tư lỗi lạc,
văn võ toàn tài. Mọi người ai cũng quý mến, tin phục, sau đó đồng lòng
suy tôn ông lên làm thủ lĩnh địa phương và sau này, chú tiểu năm nào đã
phất cờ đại nghĩa, lật đổ ách đô hộ gần 500 năm của Bắc triều, đặt những
nền móng đầu tiên cho sự ra đời quốc gia phong kiến độc lập.
Vua đầu tiên nhận lỗi với thần dân
Vua Lý Cao Tông chính là người đầu
tiên làm “thiên tử” thay trời hành đạo mà lại dũng cảm thừa nhận trước
thần dân sai lầm của mình.
Dưới thời Lý Cao Tông, triều chính bắt đầu đi xuống, loạn lạc nổi lên
khắp nơi. Sử chép: “Vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ
ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy
kém… Kinh Thi có câu: Bên trong mê sắc đẹp, bên ngoài mê săn bắn, ham
rượu, thích nhạc, nhà cao tường đẹp, người nào phạm một trong các điều
ấy tất phải diệt vong, mà vua thì phạm đủ các điều ấy, còn làm gì được…”
(Đại Việt sử ký toàn thư).
Đến mùa thu, tháng 8 năm Đinh Mão (1207), vua Lý Cao Tông thấy giặc cướp
nổi lên như ong bèn hối lại lỗi xưa, nhân đó hạ chiếu nhận lỗi, bài
chiếu viết rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu
trùng, không biết được cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu
nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào
ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất, sản nghiệp
bị sung công sẽ được hoàn lại” (Đại Việt sử lược).
Từ tù nhân trở thành hoàng đế
Câu chuyện lạ lùng này liên quan đến vua Lê Hiển Tông, vị hoàng đế thứ
26 của nhà Hậu Lê. Ông là con trai trưởng của Lê Thuần Tông, sinh năm
Đinh Dậu (1717), mất năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi. Lê Hiển Tông là
một trong số những vị vua có tuổi thọ cao nhất và là vị vua thọ nhất
triều Hậu Lê. Vị hoàng đế này cũng là một trong những người ở ngôi lâu
nhất trong lịch sử Việt Nam và là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê.
Chuyện lên ngôi của Lê Hiển Tông chứa đựng nhiều yếu tố may mắn. Khi còn
là hoàng tử, vì có người chú là hoàng thân Lê Duy Mật nổi binh đánh lại
họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua Lê, do đó ông bị chúa Trịnh
Giang nghi ngờ đem giam cầm ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công.
Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới chuyển hoàng tử đến
giam ở nhà cậu mình là Vũ Tất Thận. Đêm trước đó, Vũ Tất Thận “mơ thấy
thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh
tượng của đời thái bình” (Hoàng Lê nhất thống chí).
Sáng hôm sau thấy quân lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta rất kinh ngạc
cho là ứng vào giấc mộng của mình bèn kể lại với chúa. Trịnh Doanh thấy
vậy cho là người có phúc lớn bèn đón hoàng tử về tôn lên làm vua, đặt
niên hiệu là Cảnh Hưng.
Đôi mắt sáng như sao của vua Quang Trung
 |
Hình vua Quang Trung trên một con tem cổ |
Vua Quang Trung sinh năm Quý Dậu
(1753), hồi nhỏ có tên là Hồ Thơm, con thứ của ông Hồ Phi Phúc và bà
Nguyễn Thị Đồng. Khi trưởng thành ông đổi họ Hồ sang họ Nguyễn và lấy
tên là Nguyễn Văn Thơm, sau đó được thầy học đổi tên là Nguyễn Huệ,
ngoài ra ông còn có các tên khác là Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Văn Huệ,
Nguyễn Quang Bình… Các sách sử đều mô tả Quang Trung là người cao lớn,
tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp,
có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.
Đôi mắt lạ nhất của Quang Trung theo sách sử cho biết nó khiến nhiều
người khi thấy thần sắc của ông “đều run sợ, hãi hùng… không một người
nào dám nhìn thẳng vào mắt” (Hoàng Lê nhất thống chí). Đôi mắt này được mô tả như sau: “đôi mắt lập lòe như ánh điện” (Đại Nam chính biên liệt truyện), “con mắt nhỏ nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn thuật lược).
Vua Gia Long bị ngã lộn cổ xuống huyệt mộ
Cuộc đời vua Gia Long, vị hoàng đế khai sáng vương triều Nguyễn, có
nhiều giai thoại kỳ lạ trong thời kỳ bôn ba gian khổ để mưu đồ phục
quốc. Tuy nhiên một chuyện lạ có thật ít người biết, đó là chuyện vua đã
bị ngã xuống huyệt mộ của mẹ mình là bà Hiếu Khang hoàng thái hậu vào
tháng giêng năm Nhâm Thân (1812) và lạ hơn nữa là cách hành xử của quan
lại trước cú ngã của vua. Sách Quốc sử di biên
viết: “Trước đây sai Thị trung trực học sĩ Lê Quý Kiệt sửa sơn lăng;
Quý Kiệt nói đào đến huyệt tất có đất ngũ sắc, rồi quả nhiên đúng, vua
cho là lạ ngày càng khen thưởng. Đến lúc làm nhà bên mộ, mưa gió to, vua
xảy chân ngã, quan lại đều sợ tản đi hết. Phò mã Trương Văn Minh đỡ vua
dậy đưa ra khỏi huyệt”.
(Còn tiếp...)
(Theo Bee.net.vn)
|