KẾ HOẠCH “TỬ THỦ” CỦA ĐỊCH
Cầu Rạch Chiếc (trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, cách dinh Độc Lập 7km)
là một trong bốn cụm được xây dựng khẩn trương nhưng kiên cố, hỏa lực
mạnh. Từ cuối tháng 3-1975, ngoài hệ thống gần chục lô cốt bao quanh
cầu, 400 lính bảo an trang bị đại liên, M16, M79, cối 61 ly, súng chống
tăng, phóng lựu..., địch cho xây dựng hàng loạt công sự dã chiến bằng
thùng phuy, bao cát hai bên đầu cầu. Dưới gầm, chúng làm sàn gỗ cho lính
cơ động đi lại, bao quát toàn bộ mặt sông. Dưới mố cầu, địch cài hai
quả bom tạ, nếu không giữ được thì sẵn sàng phá hủy để cản bước tiến đối
phương. Phía tây, cách một cây số là căn cứ giang thuyền 306 với nhiều
ca nô chiến đấu tuần tiễu ngày đêm trên sông. Pháo tầm xa từ căn cứ Sóng
Thần, khu Liên Trường, Nhơn Trạch luôn sẵn sàng nhả đạn. Máy bay quần
đảo sát mặt sông, thả pháo sáng rực vào ban đêm. Đồng bưng sáu xã lân
cận, địch lập đồn bốt dày đặc, ban ngày càn quét, ban đêm oanh kích. Tất
cả các con lộ lớn nhỏ đều bị kiểm soát gắt gao. Kể từ khi xây dựng cùng
với xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa vào năm 1967, chưa bao giờ cầu Rạch Chiếc
lại được quân địch coi trọng và phòng thủ chặt chẽ như vậy. Chúng muốn
biến vàm Rạch Chiếc thành chiến hào thép, đồng thời là điểm cuối nếu
thất trận tháo chạy về Sài Gòn phải co cụm lại để tử thủ.
Hai chiến sĩ đặc công Z23 Lê Trọng Hạnh (trái) và Lê Bá Hữu ở cầu Rạch
Chiếc vào sáng 30-4-1975
Những ngày cuối tháng tư, khi năm hướng tiến công về Sài Gòn đã vào
điểm xuất phát, một phương án mới hình thành trên cơ sở nghiên cứu những
khó khăn. Đó là địa hình Sài Gòn nằm trên vùng sông nước, có nhiều cây
cầu trọng yếu như: Đồng Nai, Rạch Chiếc, Sài Gòn, Bình Triệu, Bình
Điền... Nhiệm vụ đặt ra là phải đánh và chiếm giữ những cây cầu này.
Ngày 26-4-1975, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định giao trọng trách cho
lực lượng đặc công, biệt động. Cầu Rạch Chiếc nằm trên mũi tiến công
chính với mục tiêu chiến lược là đánh chiếm dinh Độc Lập, càng phải được
chiếm giữ và bảo vệ an toàn sớm. Trọng trách đánh cầu Rạch Chiếc được
giao cho Tiểu đoàn 81, Z22 và Z23 thuộc Lữ đoàn đặc công 316, lúc này
đang ém quân ở khu vực Bình Trưng, Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm. Kế hoạch ban
đầu của ba đơn vị này là chiếm các mục tiêu trong nội ô gồm: dinh Độc
Lập, Bộ tư lệnh hải quân ngụy, Quân cảng Bạch Đằng, Ngân hàng quốc gia,
Đài phát thanh, Đài truyền hình, đã bị hủy bỏ.
Ông Trần Xuân Kiện (thứ hai từ phải qua), nguyên Tiểu đoàn trưởng D81,
chỉ huy đánh đầu cầu phía nam, gặp mặt đồng đội thuộc Lữ đoàn đặc công
316 vào sáng 24-4-2011
BA NGÀY ĐÊM NGOAN CƯỜNG
Trưa 26-4-1975, ba đơn vị D81, Z22, Z23 gặp nhau giữa đồng bưng, lập
ra Ban chỉ huy gồm các đồng chí Bảy Ân, Tư Một, Tư Thinh và Hai Kiện.
Tối cùng ngày, tổ trinh sát lên đường tiếp cận và vẽ sơ đồ mục tiêu, vị
trí bố phòng của địch... Sáng 27-4, kế hoạch tác chiến được thông qua,
phương thức đánh là chiến thuật đặc công kết hợp với cường tập. Cụ thể,
Z22 và Z23 do đồng chí Tư Thinh chỉ huy đảm nhiệm tấn công đầu cầu phía
bắc, D81 chiếm đầu cầu phía nam. Quyết tâm thư được hơn 200 cán bộ chiến
sĩ khẳng định: “Toàn thể cán bộ chiến sĩ D81, Z22 và Z23 kiên quyết
hoàn thành nhiệm vụ đánh và giữ cầu Rạch Chiếc, dù phải hy sinh đến
người cuối cùng”. Giờ nổ súng được ấn định là 3 giờ 30 phút rạng ngày
28-4.
Cầu Rạch Chiếc cũ đang dỡ bỏ để xây mới
Ảnh tư liệu
Chiều 27-4, cán bộ chiến sĩ bắt tay vào chuẩn bị. Ông Mai Thế Vinh,
cựu chiến sĩ Z23 nhớ lại: “Mỗi người tự gói cho mình 16 quả thủ pháo,
hai trái lựu đạn. Những đồng chí bắn B40, B41 mang 10 trái đạn, ai sử
dụng súng AK và các loại vũ khí khác cũng phải mang thêm ba quả đạn B40,
B41. Hậu cần lo cho mỗi người hai nắm cơm, hai hộp sữa, một túi thuốc
cá nhân”. Nửa đêm, trời tối như mực, các chiến sĩ đặc công âm thầm vượt
sông, băng qua đồng bưng tiếp cận trận địa. Ông Trần Xuân Kiện (Hai
Kiện), nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 kể: “3 giờ sáng, các chiến
sĩ đã áp sát mục tiêu chờ giờ khai hỏa. Bỗng nhiên một chiến xa địch từ
hướng Sài Gòn lao đến đậu sát nơi ém quân, buộc lòng ta phải dùng súng
AK bắn chặn. Trước tình huống bất ngờ, tôi hạ lệnh cho 60 khẩu B40, B41
đồng loạt bắn vào các mục tiêu”. Các chiến sĩ tấn công ào ạt vào bót
gác, lô cốt, trại lính. Hàng chục tên địch bị tiêu diệt, số sống sót
hoảng loạn bỏ chạy tán loạn. Đầu cầu phía nam trở thành biển lửa và nằm
trong sự kiểm soát của quân ta. Hai quả bom địch cài dưới gầm cầu bị các
chiến sĩ vô hiệu hóa. Lúc này, ở đầu cầu phía bắc, Z22 và Z23 cũng đã
tiếp cận. Ông Nguyễn Đức Thọ, chiến sĩ Z23, người được phân công diệt
tháp canh, nói: “Tôi bắn quả B40 đầu tiên nhưng do sợ vướng lưới thép
gai nên hướng nòng lên quá cao, trật mục tiêu. Sau đó tôi đứng thẳng dậy
bắn tiếp quả thứ hai làm sập một góc tháp canh, khẩu đại liên trên đó
im bặt”. Các mũi tiến công đồng loạt dùng thủ pháo, lựu đạn ném vào lô
cốt. Địch chống trả quyết liệt, các chiến sĩ D81 ào lên mặt cầu đánh
sang phía bắc hỗ trợ. Đến gần 4 giờ sáng, ta đã chiếm được cầu Rạch
Chiếc.
Ngay sau khi làm chủ cầy cầu, quân ta đào công sự, củng cố trận địa,
chuẩn bị đánh địch phản kích. Bị tấn công bất ngờ và để mất cầu, địch
điên cuồng dùng pháo tầm xa từ căn cứ Sóng Thần, khu Liên trường Thủ
Đức, Nhơn Trạch bắn như giã gạo với đủ loại đạn chụp, đạn xuyên, đạn
đinh... Trên trời, từng bầy trực thăng kéo đến thi nhau bắn như vãi
trấu. Dưới sông, ca nô chạy xé sóng xả đạn vào đội hình ta. Cuộc chiến
đấu giằng co đến gần trưa, quân địch phía Thủ Đức kéo vào, từ Sài Gòn ào
ra với sự hỗ trợ của xe tăng, thiết giáp ngày một đông. Quân ta rơi vào
tình thế khó khăn: vũ khí, lương thực cạn kiệt, tiếp tế không có, nhiều
chiến sĩ thương vong cần cứu chữa, Ban chỉ huy ra lệnh tạm thời lui
quân về củng cố lực lượng, chỉ để lại một ít bí mật bám trận địa.
Quyết chiếm lại bằng được cầu Rạch Chiếc, đêm 28-4, hơn 100 chiến sĩ
ta tiếp tục bí mật tiến vào. Lần này, ngoài dùng hỏa lực đánh các mục
tiêu địch án ngữ, ta triển khai đánh cả hướng có giang thuyền của địch,
đồng thời bảo đảm thông suốt để tuyến sau chi viện thuận lợi. Sau khi
chiếm lại được cầu Rạch Chiếc, địch bố trí lực lượng rất đông, hỏa lực
cực mạnh, nhưng trước sự phản công như vũ bão của quân ta, chúng hoảng
loạn bỏ chạy, ta nhanh chóng làm chủ cầu. Công sự, vũ khí, chiến lợi
phẩm của địch lập tức biến thành của ta để bảo vệ trận địa. Suốt ngày và
đêm 29, địch tổ chức bảy lần phản công nhưng hơn 100 chiến sĩ đặc công,
biệt động đã chiến đấu dũng cảm, đẩy lùi. Sáng sớm 30-4, địch thảm bại ở
các chiến trường dồn về xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, đến cầu Rạch Chiếc bị
ách lại. Chúng cố gắng phản công để về Sài Gòn nhưng trước sự kiên
cường của Z22 và Z23, chúng phải vứt vũ khí, trút bỏ nón áo tìm đường
tháo chạy.
Khoảng 7 giờ 30 sáng 30-4, nghe tiếng xe tăng từ xa vọng lại, các
chiến sĩ đặc công nghĩ địch phản công, sẵn sàng chiến đấu. Tiếng máy nổ
ngày một gần, trên tháp pháo chiếc xe tăng đi đầu hiện ra lá cờ quân
giải phóng. Không ai bảo ai, các chiến sĩ đồng loạt nhảy lên mặt cầu ôm
nhau sung sướng hô vang: “Quân ta tới rồi, quân ta tới rồi”. Chiếc xe
tăng dừng lại, đồng chí Tư Thinh bước đến báo cáo đồng chí Tống Viết
Dương chỉ huy Lữ đoàn 316 vừa từ xe tăng bước xuống: “Báo cáo, đơn vị đã
hoàn thành nhiệm vụ”. Đoàn xe tăng rầm rập lao qua cầu Rạch Chiếc trực
chỉ dinh Độc Lập. Nhiều cán bộ chiến sĩ D81 tiếp tục nhận lệnh theo đại
quân tiến vào Sài Gòn. Z22, Z23 bố trí thành từng tiểu đội bảo vệ Nhà
máy xi măng Hà Tiên, Nhà máy Nhiệt Điện Thủ Đức. 11 giờ 30, cờ giải
phóng phấp phới bay trên dinh Độc Lập. Cầu Rạch Chiếc đã đi vào huyền
thoại...
Những ngày này, cầu Rạch Chiếc đang được xây dựng lại to đẹp, đàng
hoàng. Xung quanh, những khu dân cư mới với nhà cao tầng đua nhau mọc
lên, biến vùng quê đồng bưng xưa thành đô thị hiện đại. Tại nơi này, 36
năm trước, sau ba ngày đêm chiến đấu kiên cường, hơn 200 chiến sĩ đặc
công, biệt động đã làm nên thắng lợi giòn giã, chiếm giữ và bảo vệ an
toàn cây cầu huyết mạch, mở thông cánh cửa phía đông bắc đón đại quân
tiến vào. Để có được kỳ tích ấy, 52 chiến sĩ đã hy sinh, nhiều người còn
nằm lại vàm Rạch Chiếc, hàng chục chiến sĩ bị thương. Trận đánh cầu
Rạch Chiếc đã đi vào lịch sử, là trận đánh quyết liệt cuối cùng trong
chiến dịch Hồ Chí Minh.
'
(Theo Congan.com.vn)