Vượt
qua bao khó khăn về chính trị và tài chính, hơn năm mươi nhà văn, nhà
thơ Việt Nam đã được WJC mời sang dự các cuộc hội thảo văn học hè hàng
năm, tham gia một số chương trình nghiên cứu và thăm Hoa kỳ đồng thời tổ
chức cho đông đảo nhà thơ nhà văn Hoa kỳ, trước hết là các nhà thơ nhà
văn cựu chiến binh, thăm lại Việt Nam và tham gia nhiều hoạt động văn
học, văn hóa tại Việt Nam. Những cuộc đi-lại này có một tác động cực kỳ
mạnh mẽ mà không có bất cứ hình thức nào thay thế được.
Hàng
nghìn cuộc nói chuyện, tiếp xúc, trao đổi, đọc thơ, đọc văn xuôi...vô
cùng tâm huyết, trung thực giàu sức cuốn hút, với nội dung nhiều bất
ngờ, của các nhà thơ nhà văn Việt nam như Nguyễn Duy, Nguyễn Quang
Thiều, Phạm tiến Duật, Trần đăng Khoa, Hữu Thỉnh, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Quang Sáng, Lê Lựu, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Lý Lan, Hồ Anh
Thái, Lê Minh Khuê, Tô Nhuận Vỹ... và cả của các nhà đạo diễn kiệt xuất
Trần Văn Thủy, Đặng Nhật Minh... trên khắp nước Mỹ, suốt hơn hai mươi
năm qua, từ thời còn bị cấm vận ngặt nghèo đến thời cởi mở hiện nay, đã
giới thiệu một diện mạo sáng sủa của nền văn hóa cao cả, giới thiệu một
dân tộc bất khuất mà khao khát tột cùng được sống trong hiếu hòa cùng
bè bạn bốn phương, với đông đảo nhân dân Mỹ, đặc biệt với trí thức, sinh
viên các trường Đại học,các trung tâm văn hóa lớn của Hoa Kỳ. Công lao
đó trước hết thuộc về các anh các chị của WJC do Kevin Bowen lãnh đạo.
Nhiều
đoàn nhà văn nhà thơ cựu chiến binh, các nhà giáo, sinh viên... Hoa kỳ
đã được WJC tổ chức thăm Việt Nam, thăm chiến trường xưa. Người cựu binh
Kevin Bowen bồi hồi khi đến Nghĩa trang Trường sơn: "Suốt một giờ
đồng hồ tôi lẳng lặng tách riêng ra khỏi đoàn, một mình lang thang hết
mộ này sang mộ khác, lòng bàng hoàng với một cảm giác mất mát không
cùng. Tôi nhớ đã ghi tên của ba người lính nằm yên nghỉ ở đó, tử trận
trong thời gian tôi có mặt ở Quảng Trị. Cuộc đời tôi lại một lần nữa
thay đổi từ những chuyến đi này..."(2).
Và những người lính
phản chiến xưa cùng với lòng nhân ái của nhà thơ nhà văn trong tâm linh
họ lúc này đã giúp họ có sức mạnh để làm lại cuộc đời, một cuộc đời có ý
nghĩa hơn những gì họ đã làm trước đó. Họ vận động cung cấp viện trợ
giáo dục, y tế cho Hà Nội, Hội An, Tây Ninh, Hóc Môn...Ngay trên vùng
đất đau thương Trị Thiên Huế, họ đã vận động giúp máy móc thiết bị cho
bênh viện TƯ Huế, giúp máy trợ thính cho Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em
khuyết tật và nhiễm chất da cam ở Nước Ngọt và trường tiểu học Thuận
Thành, phối hợp với Đại học Huế tổ chức chương trình tìm hiểu văn hóa
Việt Nam thời gian ba tuần trong nhiều năm, giúp một số giảng viên tiếng
Anh qua học chương trình thạc sĩ tại Đại học Massachusetts, "nối mạng"
để đưa đoàn nghệ thuật Việt Nam đầu tiên đến Hoa Kỳ tham gia liên hoan
dân nhạc quốc tế Lowell là đoàn ca Huế của Hội văn nghệ Thừa Thiên Huế
năm 1995...
Đặc biệt, vấn đề hòa hợp hòa giải của dân tộc hết
sức nhạy cảm của Việt nam, đã được WJC chú ý từ rất lâu, từ chính thực
tế "xương máu" trong các tổ chức hoạt động của mình, từ những năm Chín
mươi của thế kỷ trước.Các cuộc biểu tình, ẩu đả phá rối những buổi đọc
thơ đọc văn của các nhà thơ nhà văn từ Việt Nam sang, các tờ rơi đe dọa
sát hại, các cuộc nghe lén điện thoại cho đến các viên đạn bắn thẳng vào
nhà nào "chứa chấp nhà văn cộng sản"... của những thế lực cực đoan
trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt khiến anh em WJC thực sự "toát mồ hôi"
vì họ không hề quen đối phó với loại miệng hô hào dân chủ đa nguyên
nhưng hành xử như những kẻ lục lâm thảo khấu.
Nhiều trường hợp
những nhà thơ "đô con" như Bruce Weigl, Kevin...phải đưa thân mình ra đỡ
đòn cho những nhà văn nhà thơ "nhỏ thó" như Nguyễn Quang Sáng, Trần
Đăng Khoa...! WJC cho rằng các nhà thơ nhà văn Việt Nam trong và ngoài
nước có thể và nên làm một nhịp cầu tiên phong cho quá trình hòa giải
hòa hợp dân tộc. Cần phải và nên đi tiên phong trong việc xóa bỏ vết
thương chiến tranh đau đớn đã quá lâu này của dân tộc Việt Nam. WJC ra
sức tìm kiếm nguồn tài trợ để tổ chức chương trình nghiên cứu, khảo sát,
đề xuất...các hoạt động theo ước vọng cao cả này. Chương trình đã mời
nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà tôn giáo... trong nước và
nước ngoài tham gia.
Từ Việt Nam tham gia chương trình này có
các anh chị Huệ Chi, Hoàng ngọc Hiến, Trần văn Thủy, Đặng Nhật Minh, Lý
Lan, Tô Nhuận Vỹ...Trong số các nghiên cứu này, chuyên luận Nếu đi hết biển của Trần văn Thủy đã được WJC in thành sách và chuyên luận Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và hội nhập
của Tô nhuận Vỹ được công bố trên liên mạng đã gây nên một chấn động
đặc biệt, có lúc thật gay gắt, dữ dội trong cộng đồng người Việt ở nước
ngoài.
Dù có không ít người đọc không tán thành, thậm chí phản
đối gay gắt một số quan điểm, hoặc toàn bộ hai chuyên luận này (cũng như
ngược lại), nhưng có một thực tế không thể chối cãi là: lần đầu tiên,
sự gặp gỡ, sự đối thoại, sự tranh luận, sự thẳng thắn đối chọi tư duy
của các nhà văn, của các nhà văn hóa vốn ở "hai đầu chiến tuyến", đã
diễn ra, được chấp nhận diễn ra. Không có tranh luận, không có trao đổi
không thể đi đến chân lý, không có gặp gỡ, chia xẻ (kể cả sự khác biệt)
thì không thể hòa giải, hòa hợp. Điều đó là cực kỳ quan trọng mà đến khi
hai chuyên luận này được công bố, chưa một tổ chức nào trên thế giới
quan tâm đến Việt Nam sau chiến tranh làm được, trừ WJC. Mới là sự
khởi đầu nhưng là sự khởi đầu có một tầm nhìn đặc biệt này cũng thuộc
về WJC.
Cũng cần biết rằng, để có các chuyên luận này, cũng như
các chuyên luận có chất lượng khác của các tác giả được mời từ Việt Nam
sang, WJC đã làm biết bao việc, từ dàn xếp, thuyết phục, bố trí chương
trình, từ mua các loại vé tàu bay, tàu lửa, ô tô đến chỗ ăn nghỉ "đặc
biệt" ở các "khách sạn 6 sao" là chính tại gia đình của các nhà văn nhà
thơ nguyên "ở bên kia chiến tuyến". Để "hai phe" cùng ngủ, cùng ngáy,
cùng uống trà buổi sáng, cùng cụng rượu nửa đêm, cùng rỉ rả tâm sự đến
cùng đập bàn tranh luận... để rồi cùng ôm nhau mày tao ứa nước mắt thân
thiết, cùng lên án những gì đã đẩy xa anh em đồng bào ở hai đầu chiến
tuyến cho nhân dân đau đớn và Tổ quốc hoang tàn. Đó là việc làm tưởng
đơn giản nhưng thật ra vô cùng phức tạp, nhất là gần chục năm trước đây
và ngay tại những nơi nhạy cảm như ở trung tâm quận Cam, ở Washington
DC... ở những nơi mà có lúc rợp trời cờ vàng ba sọc đỏ.
Những
việc làm kiên trì, kiên định suốt hai mươi tám năm qua của WJC thật vô
cùng ý nghĩa. Đó là những hoạt động xuất phát từ trái tim nhân ái cao cả
của những con người chân chính và càng cao cả hơn một khi họ khắc khoải
trước những sai lầm của đất nước họ trong quá khứ.Nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm trong dịp tiếp đoàn WJC tại Huế mùa xuân năm 2006, đã xúc động nói
rằng "WJC đã là cầu nối giữa hai nền văn hóa, đã là chiếc tàu phá
băng giữa lúc quan hệ Việt Nam - Hoa kỳ còn đóng băng. Các anh đã làm
được nhiều việc mà ngay các nhà chính trị cũng phải ngạc nhiên".(3)
2.
Tôi không thể không nói thêm về những khó khăn, thách thức mà các anh
chị trong WJC đã chịu đựng và vượt qua để có thể tồn tại và hoạt động
như thế trong hai mươi tám năm qua.
Kevin Bowen nhớ lại: "Quả
thực là ở Mỹ chúng tôi đã phải đối mặt với những chống đối, những đe
dọa, những phá phách nhằm triệt tiêu nguồn ngân quỹ của chúng tôi", "một
thời các đại lý vé máy bay không tổ chức và không cho phép mua vé máy
bay sang Việt Nam nếu không có giấy phép theo luật cuả Bộ Ngân khố Mỹ.
Hoàn toàn lúc đó không có điện thoại, máy Fax và đường giây thư tín.
Không có internet, không điện thoại di động. Du khách bay từ Mỹ qua
Bangkoc chờ xin cấp visa vào Việt Nam và sau đó khi về nước họ bị tách
khỏi liên hệ với phần còn lại của thế giới"...(4)
Khi nhóm
chúng tôi gồm Phạm tiến Duật, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa và tôi
qua dự hội thảo hè 1994, lực lượng chống đối đã theo sát đoàn vì lịch
trình làm việc đã được WJC thông báo công khai. Ví dụ cuộc đọc thơ của
Duật, Thiều, Khoa ở nhà thờ khu trung tâm hoặc cuộc trích đọc tiểu
thuyết Phía ấy là chân trời của tôi tại thư viện công cộng thành
phố đã được thông tin công khai hơn hai tháng trước đó. Bạn phải tổ chức
bảo vệ hoặc thuê cảnh sát bảo vệ các cuộc đọc tác phẩm này. Bởi mấy hôm
trước chúng tôi đã bắt được tờ rơi giết chết bọn cộng sản thả ở
lầu mười ngay văn phòng của WJC. Đêm về, trong căn nhà 26 đường Person
mà WJC thuê cho bốn người ở, chúng tôi phải phân công nhau ngủ sao cho
khi "lâm sự" sẽ dễ bề bảo vệ mình.
Người "đứng mũi chịu sào"
phải nằm sát cửa ra vào là Nguyễn Quang Thiều bởi thân hình rất "cụ
trâu" mà chúng tôi chắc mẫm thế nào cũng biết đôi ba miếng võ. Thiều
tỉnh rụi:" Anh yên tâm, bọn chúng muốn vô được phòng anh và Khoa phải ...bước qua xác em!". Duật giành chỗ tiếp giáp "mặt trận" để cuộn tròn trong cái chăn len và phân công tôi"mày nằm trong cùng vì là thương binh, lại có nhiệm vụ bảo vệ chú út Khoa!".
Sáng
sớm hôm sau, khi chúng tôi đang ngủ vùi vì vừa qua cuộc đàm thoại viễn
liên dài hơn ba tiếng đồng hồ với các anh Nguyễn Mộng Giác, Khánh
Trường, Cao Xuân Huy... bên Cali, đúng lúc bốn chúng tôi đang mệt mề bởi
giấc ngủ muộn thì Nguyễn Bá Chung tới, khẽ khàng bấm Thiều, Duật dậy.
Duật bấm tôi và Khoa, ra dấu tuyệt đối im lặng, theo Chung ra xe ô tô
đậu gần đó.Chung cũng mới về nhà sau cuộc đàm thoại kết thúc.Chung giăng
trước mặt chúng tôi một mảnh giấy viết nguyệch ngoạc dòng chữ: Trong xe có thể có máy ghi âm, không nói chuyện.
Rồi Chung lái xe vòng vèo qua nhiều con đường, quặt trái rồi quặt phải,
rồi lộn lui lộn tới như xiếc để kiểm tra xem có cái đuôi nào theo chúng
tôi không. Giữa không khí im lặng căng thẳng cân não như trong phim
hành động của Mỹ, Trần Đăng Khoa bật lên:
Có ghi âm thì ghi này:
bọn tớ đang muốn thành anh hùng nổi tiếng mà chưa biết cách nào đây.
Thì quý vị giúp bọn tớ bằng cách ra tay đi!
Cả bọn ngớ ra một
thoáng rồi bật cười xòa. Thằng Khoa này hay thiệt, mắc mẹ gì mà hết hơi
sớm rứa! Chung dẫn cả bọn tới một quán Cafe dưới một tầng hầm và cho
biết toàn bộ cuộc nói chuyện đêm qua đã bị ghi âm. Băng ghi âm đã bỏ
ngay vào sọt thư báo của Chung sáng nay. Đây! Cả bọn quyết định ra bờ
sông Charles, bỏ xe một nơi và đi tới một bờ cỏ cách xa xe đủ để nếu
chúng có đặt máy ghi âm trong xe cũng mất tác dụng.Tranh luận, phân tích
xem bọn xấu có âm mưu gì mà dọa nạt kiểu này.
Cuối cùng thống
nhất theo ý của Thiều: bọn này chưa phải tụi muốn xin chúng mình tý tiết
bây giờ đâu. Chúng chỉ cho chúng ta biết rằng, chúng theo từng bước,
không được làm gì chọc tức chúng.Và dĩ nhiên, với Chung thì sự cảnh cáo
đó rõ ràng hơn: dừng ngay việc tiếp tay cho bọn văn hóa cộng sản này!
Chúng tôi yên tâm với phân tích của Thiều vì Thiều là người thường có
sáng kiến giải quyết mọi trở ngại, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Với
WJC, Thiều là người cần mẫn, kiên trì hỗ trợ việc dịch thuật, kiên trì
giúp đỡ việc giới thiệu tác phẩm của Việt Nam tới độc giả Mỹ, là nhà văn
Việt Nam có tác động to lớn và thường xuyên tới nhiều hoạt động của WJC
và được WJC vô cùng quý mến, tin cậy.
Trên đây chúng tôi kể lại
hơi chi tiết một trong nhiều vụ chống đối để những ai quan tâm đến quá
trình đưa văn học Việt Nam vào Hoa kỳ hình dung phần nào những rắc rối
mà anh em WJC phải chịu đựng khi hướng hoạt động chủ yếu của mình về
phía Việt Nam cựu thù.
Rõ ràng lực lượng chống đối WJC không ở
đâu xa, mà có ngay trong đại học Massachusetts. Họ đã từng thành công
khi liên tục gây sức ép đòi bằng được Ban lãnh đạo nhà trường hạ cờ đỏ
sao vàng xuống và treo cờ vàng ba sọc đỏ lên, mà theo thông lệ trường
đều treo tất cả cờ nước nào có sinh viên theo học tại đây. Lực lượng đó
biểu tình đòi cắt ngân sách dành cho WJC vì họ cho rằng tiền họ họ đóng
thuế không thể để tiếp tay cho Cộng sản Việt Nam.
Sự chống đối
WJC có lúc đã thành cao trào trên toàn cõi Hoa Kỳ, ở tất cả các nước có
đông người Việt di tản sau 1975 nhân sự kiện WJC mời hai giáo sư
Nguyễn Huệ Chi và Hoàng Ngọc Hiến qua nghiên cứu mở đầu chương trình do
Rockefeller tài trợ. Họ lên án Kevin Bowen là thiên tả, chỉ làm những
việc có lợi cho cộng sản Hà Nội, phải cách chức. Và Nguyễn Bá Chung là
cộng sản nằm vùng, đòi đánh bật Chung ra khỏi WJC và thay vào đó một
người nguyên đại úy biệt kích nhảy Bắc những năm năm mươi thế kỷ
trước(và bị bắt ngay khi xuống đất).
Kevin và Chung đã phải lên
Truyền hình Boston thuyết giải và cuối cùng phải ra hầu tòa. Cuộc đấu
tranh dai dẳng kéo dài đến mấy năm và cuối cùng tòa tuyên " WJC làm đúng quy định của Đại học mà luật tiểu bang và liên bang cho phép".
Nhưng dù đã có phán quyết của Tòa án, lực lượng chống đối vẫn không
ngừng biểu tình, không ngừng kiến nghị đòi cắt ngân sách, gây đủ khó dễ
cho các hoạt động của trung tâm. Dai dẳng tới mức Kevin phát ốm và Chung
phải gác chuyện cưới xin đến mấy năm, khiến cả hai vợ chồng khi thành
gia thất đều "hết đát", không con cái gì được nữa.
Đấy là chưa
kể chuyện này, giữa những ngày WJC và Nguyễn Bá Chung tưởng tan xương
nát thịt bởi cái mũ thiên tả, cái mũ Cộng sản nằm vùng thì khi về nước
có người còn lo ngại đề phòng họ là...CIA! Nhưng dù "lưỡng đầu thọ địch"
hay đúng hơn là "tứ phương thọ địch" như thế, họ đều bình tâm và tự tin
vượt qua hết thử thách này đến thử thách khác. Không có trái tim khỏe
mạnh, không thể Trụ nổi những thử thách như thế!
3. Riêng với gia đình tôi,WJC là ân nhân lớn.
Chúng
tôi chỉ có một gia tài vô giá là ba cháu gái. Cháu đầu bị tai nạn,
tưởng như cuộc đời đã kết thúc. Mà nếu cháu mất đi thì tôi sống để làm
gì. WJC đã trần mình ra để cứu giúp con tôi. Nói phải trần mình ra
bởi Kevin phải đi xin từng đồng, vận động từng ca mổ miễn phí ở tất cả
những bệnh viện,ở những bác sĩ, ở những Quỹ từ thiện... quen và biết, hô
hào tất cả nhà thơ nhà văn đã biết cha con tôi hoặc chưa biết chút gì,
chỉ cần Kevin nói "một nhà văn Việt Nam gặp tai nạn, đang cần chúng ta!"...
Chỉ
vài ngày sau khi tai nạn xẩy ra tôi nhận một bản Fax thống thiết như
nghe được cả tiếng thổn thức của con người cao to dềnh dàng này, thề chúng ta phải cứu Diệu Linh.Và
chỉ mấy ngày sau đã có đại diện Y tế Boston vào tận giường bệnh con
tôi. Cháu đã phẫu thuật tại Boston mười lần. Trừ mấy lần sau khi đã có
chàng trai mà sau đó là chồng, còn tất cả các lần mổ quan trọng nhất,
khó khăn nhất của cháu đều có mặt Kevin, Chung, Fred, ba chàng ngự lâm
pháo thủ thân thương của gia đình chúng tôi! Âm thầm, ít nói đến thâm
trầm trong những lần đưa cháu vào phòng mổ, nhưng chưa bao giờ vắng mặt
ba anh.
Rồi chính các anh lo cho cháu được học lên bậc cao tại
Boston, chính Kevin và Fred đã trực tiếp làm thầy phụ đạo cho cháu kịp
theo học những phần thiếu bởi tai nạn. Và ngày cháu vu quy, tôi không
kịp sang thì Kevin đã thay tôi đóng vai người cha trong buổi lễ, một
người cha chu đáo và lịch thiệp suốt đời cháu. Ơn sâu trời biển như thế
nhưng các anh không bao giờ, dạ không bao giờ nhắc đến, không bao giờ
nói đến nghiã cử cao cả của mình. Kevin chỉ có duy nhất một lần nói đến
niềm sung sướng khi được dự đám cưới con gái của một nhà văn cách mạng.
Chỉ chừng đó thôi. Nhưng chừng đó là từ trái tim chứa đầy máu đỏ, dòng
máu mà có nó WJC mới làm được bao việc nghĩa tình, bao việc trọng đại
lớn lao mà thực ra cũng vì một chữ tình của con người với nhau.
---
Chú thích:
(1)Nguyễn Bá Chung - Tạp chí Sông Hương số tháng 11/2007
(2)Kevin Bowen - Tạp chí Sông Hương số tháng 11/2007
(3)Nguyễn Khoa Điềm - Tiền phong cuối tuần số Xuân 2006
(4)Kevin Bowen - Tạp chí Sông Hương số tháng 11/2007