Duy nhất một lần, khoảng đầu năm 1969 tại căn cứ Cụm
Tình báo B49 ở khu vực Bến Chùa, Thanh An được tiếp xúc 2 vị khách trong
đoàn văn nghệ địa phương, trong đó có một người quê miền Bắc. Anh giới
thiệu tên là Cương, quê ở Hải Phòng, tuổi lớn hơn tôi cả nửa con giáp,
hiện làm công tác văn hóa, văn nghệ ở khu Sài Gòn - Gia Định. Tôi reo
lên "Trời ơi! Mấy năm mới gặp được một người đồng hương. Mong sao còn
sống tới ngày đất nước hòa bình, nhất định tôi sẽ tìm về thành phố Cảng
quê anh. Tôi có ông chú công tác ở đó" - "Ở cơ quan nào vậy?" - "Công ty
hợp doanh Thống nhất. Địa chỉ ở 122 phố Ngô Quyền. Tên là Đặng Hữu
Trí".
Thạch Cương mở bòng rút ra một tờ báo Văn nghệ đưa cho
tôi: "Tặng cậu cái này làm kỷ niệm". Tôi vồ lấy tờ báo, khẽ reo lên:
"Trời ơi! Hơn 3 năm nay mới nhìn thấy, mới được cầm một tờ báo như thế
này". Tôi vội mở từng trang, lướt qua tít bài, tên tác giả và dừng lại ở
trang truyện ngắn có cái tên thật dân dã: "Xóm Bàu" của tác giả Thạch
Cương. Tôi ngước nhìn anh, ngập ngừng: “Anh ơi! Có phải cái này…" - "Ờ…
Cái đó mình viết từ dạo đầu năm. Vòng vèo thế nào mà gần đây mới tới tòa
soạn". Tôi vội đứng dậy, nắm chặt tay anh, lại thốt reo lên: "Trời ơi!
Thật may mắn, thật không ngờ lại được gặp nhà văn ở đây! Tiếc quá, nếu
được gặp anh sớm hơn để… nhờ thầy đọc và sửa giúp mấy cái…" - "Cha! Vậy
là Thái Dương (tên thường dùng của tôi ở chiến trường, đồng thời cũng là
bút danh) cũng làm công tác văn nghệ?" - "Dạ không, làm công tác nghiệp
vụ, nhưng thích văn nghệ, viết được mấy cái truyện, nhưng èo uột lắm,
chả dám đưa ai đọc, chả dám gửi đi đâu. Giá được gần anh thì hay quá…" -
"Cứ viết đi, viết những cái đang diễn ra ở chiến trường. Đừng tự ty với
mình. Ngày mới cầm bút, mình cũng thế".
Cuộc tiếp xúc quá ngắn ngủi rồi phải chia tay anh. Mấy
tuần sau, tôi nhận được quyết định đi triển khai một cụm mới, trở lại
chiến trường Đông Bắc Sài Gòn, phía cửa ngõ chiến khu "D". Phải dừng lại
ở An Phú, Củ Chi mấy ngày, chờ vượt sông Sài Gòn về Nam Bến Cát. Tình
cờ gặp một cán bộ khu Sài Gòn - Gia Định, hỏi về nhà văn Thạch Cương,
người đó quá rành, kể rất chi tiết: "Ông này viết hay và viết khỏe lắm. Ở
chiến trường bom đạn tối ngày mà viết và in tới mấy tập truyện rồi đó.
Thạch Cương quê miền Bắc. Hình như ở Hưng Yên, tốt nghiệp Đại học Sư
phạm Văn ở Hà Nội, rồi về dạy học ở Hải Phòng. Năm 1965 vô chiến trường.
Đã công tác ở Báo Văn nghệ Quân giải phóng, rồi về đây…".
Chiến trường Đông Bắc quá căng thẳng, không tìm được
địa bàn bám trụ, toàn đơn vị lại chuyển về Tây Bắc. Do yêu cầu đột xuất,
tôi lại nhận quyết định về cụm H67, căn cứ bám trụ tại rừng Bời Lời -
Tây Ninh, thay nhiệm vụ của một cán bộ nghiệp vụ bị thương phải chuyển
về "R". Cuối năm đó đơn vị chuyển vùng hoạt động về Bến Tre. Tôi xa
chiến trường miền Đông Nam Bộ từ đó. Cũng có nghĩa là xa người đồng chí,
người anh - một nhà văn đồng hương vừa quen biết mà không hy vọng có
ngày gặp lại.
Dọc đường hành quân
Từ căn cứ Bời Lời về Bến Tre, đường chim bay chẳng bao
xa, nếu đi đường bộ bằng xe đò (khách) cũng chỉ hơn một trăm cây số.
Cao lắm cũng chỉ hết 4 giờ đồng hồ, kể cả qua Bắc (phà) Rạch Miễu. Ấy
vậy mà chúng tôi phải đi mất hơn 1 tháng. Số là phải đi vòng vèo, phải
"mua" thêm nhiều quãng đường hết sức phi lý. Rồi thêm cái nạn tắc đường
giao liên do địch càn quét.
Từ Bời Lời, phải vượt qua mấy huyện của tỉnh Tây Ninh để lên biên giới Campuchia, rồi cập theo biên giới xuôi phía Nam
về Ba Thu, Tăng Lèo. Dừng chân ở đó tới gần 2 tuần lễ để chờ chuyến
giao liên. Đó là một vùng an toàn trên đất Campuchia, cách xa biên giới
Việt Nam.
Thời đó, dọc theo biên giới từ Sa Mát, Thiên Ngôn tới Ba Thu, Tăng Lèo…
là vùng an toàn, yên tĩnh, nên rất nhiều cơ quan, đơn vị của ta tạm
lánh lên đây. Đối với tôi, đó là những ngày thanh thản nhất sau bao năm
căng thẳng ở chiến trường.
Một chiều Tăng Lèo yên ả. Chúng tôi đang ngồi uống trà
trước lán nghỉ thì có một vị khách "không hẹn mà tới". Đó là một trung
niên, tầm thước, da mai mái, tóc hớt cao, tướng mạo dễ gần. Chúng tôi
mừng quýnh, chắc là lãnh đạo đơn vị giao liên tới thông báo chuyến đi.
Nhưng rồi không phải.
Khách tự giới thiệu là thành viên trong đoàn cán bộ
Cục Chính trị đi thực tế. Tôi thốt reo lên: "A! Chắc các anh cùng về
chiến trường Bến Tre" - "Không! Mình ở Văn nghệ Quân giải phóng. Chỉ
được về tới đây thôi. Mình là Thanh Giang". Tôi như muốn reo lên: "Vậy
anh là nhà thơ, tác giả bài "Cô em gái". Khách khẽ gật đầu, ngước nhìn
tôi: "Cha!... Ở chiến trường ác liệt vậy mà theo dõi tình hình văn nghệ
kỹ đó". Đối với tôi, thật không ngờ lại có một cuộc gặp gỡ tình cờ như
thế.
Nghe tôi nói rất mê văn nghệ, đang tập tọe viết, gương
mặt khách rạng ngời: "Tốt, tốt lắm! Trên này rất cần những bài viết sôi
động từ chiến trường gởi về. Cho coi mấy cái đi". Đắn đo giây phút, tôi
mở bòng, lôi ra một mớ thập cẩm bản thảo gồm truyện ngắn, ký sự, thơ,
lựa mãi mới "liều mạng" rút ra cái truyện "Cu Tèo và cái giàn thun" đưa
cho anh. Lướt qua bản thảo, khách gật gật khen: "Tốt! Viết tốt đó, đúng
là "giặc vẫn còn, trẻ con cũng đánh". Vậy mà không gởi về. Cái này có
thể in ngay được".
Biết đoàn tôi đi Bến Tre, nhà thơ Thanh Giang bùi ngùi
tâm sự: "Mấy anh về đúng quê mình đó. Thèm về chiến trường lắm mà không
được đi. Trên Ban, chỉ có 2 người, mình làm phó cho anh Nguyễn Thành
Vân (Nguyễn Trọng Oánh), nên có muốn cũng kẹt. Thái Dương về Bến Tre nhớ
viết được cái gì cứ gởi về trên này. Cái nào chưa in thì bọn mình giữ
hộ. Chiến trường sông nước, bom đạn ác liệt, để mất mát thì uổng lắm".
Lời khuyên của 2 nhà văn bậc đàn anh, trở thành nguồn
cổ vũ, động viên tôi trên bước đường sáng tác của mình. Về Bến Tre, đơn
vị chúng tôi tạm thời tập kết tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm. Ba
ngày sau, tôi được phân công cùng một tổ trinh sát, do cụ Phó Năm Tuyến
phụ trách, tìm đường về xã An Phước, huyện Châu Thành, để xây dựng căn
cứ bám trụ. Đó là một địa bàn nằm phía Đông - Bắc thị xã Bến Tre. Đường
chim bay từ Giồng Trôm sang chắc cũng chỉ mười mấy cây số. Vậy mà phải 4
đêm hành quân mới tới nơi. Phải sọc về xã Châu Bình thuộc Giồng Trôm,
từ đây, cặp sông Ba Lai, đi ngược lên qua Phong Mỹ, Phong Mẫm, rồi vượt
kênh Chẹt Sậy mới về được An Phước.
Một chuyến đi với biết bao cảm xúc về tình cảm quân
dân, về tinh thần bất khuất kiên trung của đồng bào, đồng chí chúng ta. Ở
Châu Bình, tôi đã ghi lại tư liệu để viết truyện ngắn "Vùng tử địa", in
trên Văn nghệ Quân giải phóng năm 1972. Ngày đầu đặt chân tới An Phước,
tôi đã cảm hứng sáng tác bài thơ "Mùa dâu chín", gửi in trên Văn nghệ
Đồ Chiểu của tỉnh Bến Tre năm 1970 và Văn nghệ khu 8 năm 1971, cùng
nhiều bài viết in trên báo và tạp chí địa phương.
Tôi thầm cảm ơn hai bậc đàn anh văn chương của tôi và
vẫn thắc thỏm mong chờ sẽ có ngày... Vậy mà, thăm thẳm mười mấy năm sau
tôi mới có may mắn gặp lại. Thật không ngờ, nó diễn ra giữa "Sài Gòn hoa
lệ", nơi mà cả 2 anh đều đã trở thành công dân ở đó. Niềm xúc động đối
với tôi là cả 2 người đều nhận ra tôi ngay. Hai anh là người thầy của
bao lớp học trò. Còn tôi, chỉ là một cậu học trò trong chốc lát, vậy
mà...
Ôi! Nghĩa tình đồng đội, đồng chí của một thời máu lửa, nó đậm đà, thiêng liêng, thắm đượm như vậy