Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã làm cho nền kinh tế
Mỹ suy giảm và được thể hiện khá rõ qua sự yếu đi của đồng đô-la ngay
trên thị trường tiền tệ những năm sau đó. Đến năm 2010, nền kinh tế Mỹ
đã có dấu hiệu khả quan nhưng đến đầu năm 2011, thâm hụt thương mại và
thâm hụt ngân sách của Mỹ lại rất lớn kéo theo sự giảm giá nhanh của
đồng USD. Câu hỏi đặt ra lúc này là liệu sự thống trị của đồng đô-la đã
đến thời kỳ chấm dứt hay chưa và làm sao giảm được tác động tiêu cực đó
tới những nền kinh tế nhỏ hơn?
Thực tế, từ sau chiến tranh thế giới thứ II, đồng USD luôn giữ vị trí
thống trị trên toàn thế giới và bất cứ một sự hỗn loạn về kinh tế, tài
chính nào xảy ra thì các nước đều lấy đồng đô-la làm đồng tiền dự trữ ưu
việt nhất. Mặt khác, những năm gần đây đã xuất hiện nhiều nền kinh tế
lớn cùng với xu hướng một thế giới đa cực đang khiến một số nước có ý
định đưa những đồng tiền khác thay thế cho tư cách của đồng đô-la Mỹ.
Đây cũng là một điều dễ hiểu bởi qua thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới vừa qua tất cả các nước lớn nhỏ trên thế giới đều phải chật vật
đối phó để phát triển mà nguyên nhân chủ yếu là do nền kinh tế của họ
quá phụ thuộc vào hệ thống tiền tệ do Mỹ làm chủ đạo.
Có thể nói hiện các đồng tiền như yên (Nhật), đồng euro của Liên minh
châu Âu, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc… đang có cơ hội cạnh tranh với
vị trí của đồng đô-la Mỹ. Đối với đồng euro đang được sử dụng tại 17 nền
kinh tế châu Âu, một số ý kiến cho rằng, hiện đang chiếm 28% trong số
hàng nghìn tỷ đô-la lượng tiền tệ dự trữ chính thức toàn cầu. Tuy nhiên,
đồng euro cũng đang bị hạn chế bởi các thị trường vốn chia nhỏ, do đó
không thể đảm bảo cho quy mô và tính thanh khoản của một thị trường trái
phiếu tầm 600 tỷ đô-la một ngày. Ngoài ra, với hệ thống ngân hàng bị
phân chia lại không có cơ quan tài chính trung ương nên sự huy động về
các nguồn lực lao động bị hạn chế và việc phân bổ vốn diễn ra rất chậm.
Tất cả những điều đó khiến châu Âu hình như đang chịu một viễn cảnh tài
chính khó khăn như Mỹ, nhưng tiến triển với tốc độ chậm hơn vì các lợi
ích trong từng nước được bảo hộ sâu hơn. Trong tình cảnh như vậy kể từ
giữa tháng 1/2011, đồng euro vẫn tăng 15% so với đồng USD, một phần vì
Ngân hàng Trung ương châu Âu đã sẵn sàng tăng lãi suất trong khi FED vẫn
chưa đưa ra tín hiệu nào chứng tỏ Mỹ sẽ nâng lãi suất cao hơn.
Còn ở châu Á, nền kinh tế tại khu vực này đang được coi là có tốc độ
phát triển nhanh nhất trên thế giới với hai nước: Trung Quốc, Nhật Bản
là nền kinh tế đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới, sau Mỹ. Đối với Nhật
Bản - nước có nguồn tài sản vô cùng lớn lại có một nền giáo dục, đào tạo
rất tốt cùng việc sở hữu những tập đoàn kinh tế mạnh nhất trên thế
giới, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu… đó thực sự là lợi thế không
phải nước nào cũng có. Nhưng Nhật vẫn đang có những vấn đề khó khăn lớn
về tài chính như tỷ lệ nợ công trên GDP rất cao, tính đến hết năm 2010,
nợ công trái của Nhật đã lên đến 11 nghìn tỉ yên, gấp đôi GDP của nước
này và Thủ tướng Nhật Naoto Kan đã phải cảnh báo, nếu không khéo, Nhật
Bản sẽ bị vỡ nợ như Hy Lạp. Hơn nữa, Nhật đang phải đối phó với hiện
tượng giảm phát nghiêm trọng. Điều đó có nghĩa là người tiêu dùng và
doanh nhân chờ đợi để mua sắm và đầu tư vào các trang thiết bị. Hiện
tượng giảm phát làm tăng lãi suất thực xóa đi phần nào lợi thế mà Ngân
hàng Trung ương tạo ra để khuyến khích tư nhân vay mượn tiền. Thêm vào
đó thảm họa động đất, sóng thần vừa qua cũng như một loạt các khó khăn
khác đang đẩy nước Nhật đã khó khăn lại chồng chất thêm khó khăn. Vì
thế, đồng yên Nhật cũng chưa có thể cạnh tranh với đồng đô-la trong
những năm sắp tới.
Trung Quốc được coi như một siêu cường kinh tế mới nổi vừa vượt qua Nhật
để xếp thứ hai với những kỷ lục về sự tăng trưởng kinh tế được duy trì
nhiều thập kỷ qua. Nhưng Trung Quốc cũng đang đối mặt với rất nhiều
thách thức. Nước này có một tài khoản vốn khép kín, một hệ thống ngân
hàng đang có vấn đề như kém tính độc lập kể cả ngân hàng trung ương và
một hệ thống pháp lý vẫn còn ở giai đoạn “phôi thai”, các thị trường vốn
thô sơ… Một phần lớn dân số Trung Quốc vẫn sống trong những điều kiện
sống của một nước đang phát triển. Trung Quốc đang phải tiếp tục giải
quyết các trở ngại trên và chắc vẫn sẽ có những tiến bộ to lớn từ bây
giờ tới năm 2025. Nhưng thậm chí ngay khi ở trong những điều kiện tốt
nhất với giả định rằng phần còn lại của thế giới ổn định, đồng nhân dân
tệ cũng không thể vượt quá 10% đến 15% tổng số dự trữ tiền tệ toàn cầu.
Theo cách nói của nguyên thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu thì Trung
Quốc cũng chỉ mới có thể từ từ hình thành những thách thức đối với Mỹ mà
thôi. Bất ngờ là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), mới đây lại đưa ra dự báo
đến năm 2016, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất
thế giới, sớm hơn một thập niên so với dự báo trước đó.
Tất nhiên xét về quá khứ thì chỉ trong hơn một thập kỷ, từ năm
1914-1924, đồng USD đã thay thế hoàn toàn đồng bảng Anh dù trước đó bảng
Anh là đồng tiền thống trị trong thương mại toàn cầu và London trở
thành thủ đô tài chính của thế giới. Nguyên nhân lúc đó nước Anh phải
đối mặt với những khoản nợ khổng lồ sau Thế chiến thứ nhất. Vì thế cũng
khó có thể dự đoán chính xác tư cách của đồng USD những lúc như thế này.
Nhiều chuyên gia kinh tế cũng nhận định việc Mỹ duy trì địa vị cường
quốc xuất sắc, hoàn toàn thoát khỏi những khó khăn kinh tế trong thời
gian gần đây phù hợp với lợi ích của thế giới. Từ đó có thể thấy tương
lai của đồng USD sẽ phụ thuộc vào sự hồi phục của kinh tế Mỹ cũng như
cách Chính phủ nước này giải quyết các khó khăn tài chính của họ. Và chỉ
có như vậy Mỹ mới duy trì được sự cân bằng của các thế lực trên thế
giới nghĩa là họ vẫn giữ vị thế toàn cầu của họ. Dĩ nhiên, nhiều nước
cũng sẽ hợp tác trực tiếp với nhau kể cả cho ra đời đồng tiền chung để
giảm bớt sự phụ thuộc vào đồng đô-la và ngược lại một vấn đề nảy sinh
khác, nếu đồng đô-la mất giá, nghĩa là số tài sản tính bằng đồng đô-la
của họ cũng sẽ bị thu nhỏ lại. Và không loại trừ khả năng mục đích chính
sách khác của Cục dữ trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) là để đồng USD mất giá,
kích thích Mỹ xuất khẩu nhằm lôi kéo kích tế của Mỹ phục hồi.
Cho nên, để tránh sự quá phụ thuộc vào đồng USD thì việc chống đô-la hóa
trong nền kinh tế của từng nước là giải pháp tất yếu và cần phải thực
hiện triệt để. Ngoài ra, chính sách tỷ giá cũng cần phải quan tâm điều
chỉnh nhanh nhạy nhằm đảm bảo thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu cũng như tránh
nạn nhập siêu của những nền kinh tế nhỏ, vừa, đang phát triển...