Chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa: Tư liệu và sự thật lịch sử
Việt Nam có bờ biển dài, với vùng
biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí
trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Từ thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay,
con người ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai
phá, sinh cơ lập nghiệp trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ các thời Lý -
Trần - Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia
Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam
cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là
cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh
lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt
vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.
 |
Bản đồ do nhà xuất bản Covens and Mortier tại Amsterdam vào năm
1760có ghi chú quần đảo Paracel bên cạnh bờ biển xứ Đàng Trong (Ảnh: ĐĐK) |
1. Tổ chức các đội Hoàng Sa
và Bắc Hải, hình thức độc đáo duy nhất của quá trình xác lập và thực thi
chủ quyền trên các vùng quần đảo ngoài Biển Đông trong các thế kỷ 17-18
Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá
đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của
nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở
ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré...;
phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và
những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới
đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.... .
Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70
suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận
giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ,
ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn.
Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn
bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ
chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất
nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân
và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải
sâm, rồi lĩnh bằng trở về...
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không
định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người
xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu
cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao
Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi,
hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản...
…Tôi đã từng thấy một đạo công văn
của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói
rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát
Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày
tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm,
chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan
cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu
(Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá là Thức Lượng hầu làm thư trả
lời”.
 |
Đông Nam Á trên bản đồ của Hondius xuất bản năm 1606 tại Amsterdam (Ảnh: ĐĐK) |
Như vậy, thông qua một hệ thống các
tư liệu gốc, khách quan, xác thực và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn
đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa,
Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội
Hoàng Sa, Bắc Hải.
Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789)
là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn, trong đó đoạn
ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê
Quý Đôn. Ý nghĩa của Đại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi
chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc
sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản
khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.
Đại Nam thực lục Tiền biên là phần
đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và
khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa,
Bắc Hải không khác Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên.
Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo
soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài
biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa
Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau,
vị Hoà thượng Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên
đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và
cho biết: “các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền
đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư
hỏng dạt vào” .
Thật ra từ thế kỷ XVI trở về trước,
các nhà hằng hải phương Tây đã có nhiều ghi chép và bản đồ xác định vùng
quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa) hay
Pulo Capaa (Đảo của Chămpa) và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ
cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi
là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa) . Như thế từ rất lâu đời các nhà
hằng hải phương Tây đã coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ
với vùng bờ biển Đàng Trong.
Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu
thuyền của người phương Tây đi đến vùng biển này thường xuyên hơn và
nhận thức của họ về các quần đảo giữa Biển Đông cũng phong phú và chính
xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng
Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền
Đàng Trong đã dành cho mình quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng
hoá tiền bạc trên các tầu bị đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà vào năm
1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là
một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam” .
Như thế các tư liệu đương đại của cả
Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ
ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa.
Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ
trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm
nào và trong nguồn sử liệu nào?
Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống
nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ, tức là từ thời các
Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định rõ là Nguyễn
Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan…?
 |
Bản đồ hàng hải Châu Âu thế kỷ 15-16 (Ảnh: ĐĐK) |
Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh
(thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn
đề ngày 15/Giêng/1775, do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An
Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã
chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631),
Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo
Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...”.
Tư liệu cho phép suy đoán lúc đầu
chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm đội
Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế
Hương Hàm 30 suất nữa.
Năm 1636, người Hà Lan đã đư¬ợc phép
mở một th¬ương điếm ở Hội An, d¬ưới quyền điều hành của Abraham
Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An chúa Thư¬ợng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp
Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc “chiếc tàu mang tên
Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã
đ¬ược các ng¬ười Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nh¬ưng đồng thời cũng lấy
đi tổng số tiền là 25.580 réaux”. Ông có nhiệm vụ xin đ¬ược bồi hoàn số
tiền đó. Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng “những việc đó đã đ¬ược xảy ra từ
thời chúa tr¬ước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập
đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang
hàng hoá đến buôn bán, đ¬ược miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà
Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá đ¬ược
cứu hộ nữa".
Phải chăng những người Việt cứu giúp
tầu Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội
Hoàng Sa, và như vậy càng có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã
xuất hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn
Phúc Nguyên (1613-1635).
Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ
quyền của chúa Nguyễn ở các vùng quần đảo giữa biển Đông càng trở nên
nhộn nhịp thu hút sự chú ý nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu
về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài
liệu chính thức của nhà nước, của các địa phương còn có những ghi chép
của các thương nhân, giáo sĩ, các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao
nước ngoài và các học giả trong ngoài và nước.
Cũng đúng vào năm 1776 khi Lê Quý Đôn
viết sách Phủ biên tạp lục khảo tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự
nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của
đội Hoàng Sa, thì ở quê hương của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm
đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu
lượm hoá vật, hải vật còn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng
biển đảo: “Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế
Hương...
Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng
Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ
sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt các
vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có
tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với
kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng
thuế quan đem phụng nạp...” .
Không chỉ thống nhất với các nguồn tư
liệu chính thức của Nhà nước mà nguồn tư liệu này còn gắn liền với các
di tích và truyền thuyết ở địa phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi
đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa
giả với những nghi lễ hết sức đặc biệt của làng quê đưa tiễn những người
con quả cảm của mình đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn
thân vào cõi chết vì một vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Hoàng
Sa đi có về không; Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi”.
(Còn nữa)
(Theo Giaoduc.net.vn)