Lời dẫn: Luận điểm chính của bài viết này "Đi tìm một trật tự mới cho Biển Đông" cho rằng sự chuyển đổi nhanh chóng cấu trúc sức mạnh tại khu vực đã ảnh hưởng và thách thức trật tự hiện có tại biển Đông.
Với việc lý giải lại các điều khoản trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) phục vụ tùy theo lợi ích, và nâng mức độ từ người tham gia, thành tác nhân "giám sát", Trung Quốc đang chuyển từ việc chấp nhận thỏa thuận ngầm trong những trụ cột trật tự hàng hải khu vực sang thái cực phản đối và đối chọi, dần dần trên đường xây dựng một trật tự dưới ảnh hưởng của mình. Những hành động này đang là nguồn gốc của căng thẳng xảy ra trong thời gian gần đây.
Hướng tới hòa bình và thịnh vượng chung, một "trật tự mới" cần được tái lập trong đó nhấn mạnh nhu cầu bức thiết về quá trình „định chế hóa" như một giải pháp căn cơ lâu dài, trong đó phân biệt giữa „phương tiện" và „cứu cánh" trong cách tiếp cận chính sách cho các nước ASEAN và Việt Nam.
Phần 1:Tại sao "trật tự" của Trung Quốc là vấn đề?
Một khu vực "trật tự" hàm ý các hoạt động, sự việc xảy ra trong phạm vi này được quy định và kiểm soát. Thường thì bằng luật "cứng", được hiểu như điều khoản, quy định, pháp lệ. Như tại một ngã tư đèn đỏ là dừng, đèn xanh duy chuyển, còn đèn vàng là dấu hiệu chuẩn bị. Hay bằng luật "mềm", ví như cách hiểu giữa các thành viên cộng đồng; đồng thuận, giữ gìn và bày tỏ thái độ nếu có cá nhân nào vượt quá giới hạn cho phép. Như trong bệnh viện thì đi nhẹ nói khẽ, nơi công cộng nên có hành vi đúng mức, ưu tiên cho người thiểu năng, nhường nhịn phụ nữ có thai.
Điểm giao thoa của hai góc nhìn này là giúp cho quan hệ giữa thành viên có thể nhận diện bằng các tín hiệu được đoán trước. Nếu bệnh viện được phép hò la như sân đá banh, ai muốn ra vào lúc nào cũng được, hay không còn sự tương kính, nhường nhịn giữa người và người trong cộng đồng, thì tính "trật tự" sẽ không giá trị, và hành vi giữa mỗi người chuyển dịch theo một dấu hiệu khác.
Từ trật tự đến vô trật tự cách nhau một gang tay, là xuất hiện của một hành động ngược lại các quy chế, chuẩn tắc chung mà mọi người đang theo đuổi. Vô trật tự dẫn đến rối loạn vì thiếu vắng chỉ dấu dẫn dắt về hành vi.
Trên bình diện trong một quốc gia, Nhà nước và cộng đồng là hai tác nhân đảm bảo trật tự. Khi một cá nhân vi phạm, Nhà nước trừng phạt bằng luật lệ, xã hội răn đe bằng đạo đức. Trên bình diện quốc tế, sự việc phức tạp hơn, song hành nhiều góc nhìn nhận định.
Hình dung thứ nhất miêu tả thế giới là thực trạng vô chính phủ, khi một siêu nhà nước không tồn tại, và một siêu cộng đồng cũng không hiện hữu. Để đảm bao an ninh buộc các quốc gia giải quyết vấn đề bằng sức mạnh.
Cân bằng quyền lực là chính sách được tiến hành hàng thế kỷ qua từ Âu sang Á. Cân bằng nội lực thông qua tăng cường súng ống, khả năng quốc phòng. Ngoại lực bằng cách thiết lập liên minh, tham gia tổ chức liên kết quân sự. Điểm giữ cho hệ thống ổn định là mức độ cân bằng, tức là không có sức mạnh nào trở thành vượt trội.
Và đó là nguyên tắc phân định giữa góc nhìn thứ hai, xem sức mạnh là một phần của luật chơi, nhưng tính vượt trội của một siêu cường đóng vai trò then chốt. Thứ nhất, khoảng cách sức mạnh quá lớn để các nước khác có thể cân bằng. Thứ hai, siêu cường giữ vai trò lãnh đạo, "đứng mũi, chịu sào" bài toán "hàng hóa công", thứ rất cần cho việc thúc đẩy hợp tác, nhưng đắt, và ít cá nhân nào có khả năng chi trả, hay chấp nhận trả một mình. Có thể kể đến vai trò của Hoa Kỳ trong trong công cuộc tái thiết châu Âu với kế hoạch Marshall hay Đức quốc và Pháp trong kế hoạch thống nhất EU. Hay dàn binh bố trận của hải quân Mỹ để đảm bảo tự do lưu thông trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Trật tự lúc này ổn định nhờ sự có mặt của "vương quyền".
Vượt qua bài toán sức mạnh, hình dung thứ ba được xây dựng trên cơ sở luật và chuẩn tắc. Luật pháp qui phạm những hành vi hợp pháp, và không hợp pháp. Chuẩn mực quy phạm những việc nên hay không nên. Liên Hiệp Quốc (Hiến chương, các bộ luật quốc, các cơ quan chấp pháp) và công luận quốc tế là phiên bản gần nhất cho hình dung về một công lý tối thượng, và một giá trị bao trùm. Bên cạnh đó là quá trình định chế hóa các mối quan hệ quốc tế với lập luận: luật là điều kiện cần, chuẩn tắc đằng sau luật là điền kiện đủ đề điều khiển tất cả hành vi.