 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng đến sự nghiệp trồng người của nước nhà, ảnh TL |
Không phải ngẫu nhiên mà ngày 5-6-1911
Hồ Chí Minh lại quyết định đi sang nước Pháp, tới các nước phương Tây mà
lại không đi theo cách nghĩ và cách làm của các bậc cha chú như Phan
Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám.
Trước khi ra nước ngoài, Hồ Chí Minh đã
có những tư duy mới mẻ, độc lập, tự chủ, sáng tạo. Người không chấp nhận
suy nghĩ cho rằng chỉ bằng nhiệt huyết yêu nước, lòng căm thù xâm lược
và khát vọng độc lập tự do là có thể đánh bại quân xâm lược. Tư duy của
Người cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu “đồng văn đồng chủng”. Suy nghĩ và
hành động của Người với ý chí dù chỉ một mình cũng quyết tâm sang Pháp,
nơi có khoa học kỹ thuật phát triển, nơi tôi luyện những khái niệm về
cách mạng, tiến bộ, dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái... cho thấy ngay
từ lúc đó Hồ Chí Minh đã muốn hiểu biết, khám phá thế giới theo tinh
thần “muốn đánh Pháp phải hiểu nước Pháp, muốn hiểu Pháp phải học chữ
Pháp”, phải có trí tuệ để nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng.
Thông điệp của Người là muốn đánh kẻ thù
thì phải hiểu kẻ thù. Chính vì vậy khi được cha cho học trường Pháp –
bản xứ ở Vinh, rồi trường Tiểu học Đông Ba, trường Quốc học Huế, Người
rất tích cực học tập. Những ngày trước khi ra nước ngoài, Hồ Chí Minh đã
có ý định xin vào học trường Kỹ nghệ thực hành ở Sài Gòn. Người quyết
định sang Pháp không phải để chống lại nước Pháp mà để tìm hiểu, nghiên
cứu văn hóa, văn minh Pháp, lấy cái đó làm “vũ khí” trí tuệ để chống lại
bọn thực dân xâm lược trên đất nước mình.
Những tháng năm hoạt động ở nước ngoài, Người tiếp tục thực hiện ý định
của mình về việc khám phá, học tập, tiếp thu trí tuệ của thời đại. Người
đã có đơn gửi Tổng thống nước Pháp từ Mácxây, đề ngày 15-9-1911 xin vào
học trường Thuộc địa (với lá đơn này, các thế lực thù địch đã có hành
động xuyên tạc xấu xa mục đích tìm đường cứu nước chân chính của Nguyễn
Tất Thành và đã bị các nhà sử học chân chính của nước Pháp và nhiều nhà
nghiên cứu bóc trần).
Cùng với hoạt động thực tiễn, Hồ Chí
Minh tích cực nghiên cứu lý luận, tiếp thu có chọn lọc văn minh Âu, Mỹ.
Bằng sự trải nghiệm của bản thân, Hồ Chí Minh thấy rằng muốn làm cách
mạng thành công phải “trồng người”, huấn luyện, đào tạo cán bộ. Từ những
năm hai mươi, phát hiện ra sự hạn chế về tư duy lý luận của những người
yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chú trọng công tác đào tạo cán bộ,
rồi gửi những học viên ưu tú tiếp tục được đào tạo ở nước ngoài tại
trường quân sự Hoàng Phố (Quảng Châu, Trung Quốc) và trường Đại học
phương Đông (Mátxcơva, Liên Xô).
Khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh cùng Đảng lãnh đạo dân tộc đấu tranh giành
chính quyền về tay nhân dân. Trong thời gian ngắn trên đường về nước,
được tin hơn 40 thanh niên các dân tộc Cao Bằng, vì bị đế quốc Pháp
khủng bố đã vượt biên giới sang Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chí Minh nghĩ
ngay tới việc tổ chức một lớp huấn luyện cho anh em, sau đó đưa họ trở
về củng cố và mở rộng phong trào ở Cao Bằng. Lớp học đã được tổ chức tại
làng Nậm Quang (Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc). Các tài liệu huấn
luyện được tổ chức biên soạn thành cuốn sách nhan đề Con đường giải
phóng. Thông điệp và việc làm của Hồ Chí Minh về đào tạo, huấn luyện cán
bộ cho cách mạng có ý nghĩa to lớn cho thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh-con người đã từng
là thầy giáo và có ba mươi năm lăn lộn ở ngoài nước, hiểu rõ ý nghĩa sâu
xa và vai trò to lớn của tri thức - đã xác định sự nghiệp bảo vệ nền
độc lập dân tộc và kháng chiến là cuộc đấu tranh chống lại ba kẻ thù:
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Thông điệp của Người ngay trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3-9-1945) là: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”. Và Người đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn
mù chữ. Hàng loạt sắc lệnh liên quan tới giáo dục được Hồ Chí Minh ký
như Sắc lệnh về việc thành lập Nha bình dân học vụ (6-9-1945); Sắc lệnh
về việc thiết lập một Quỹ tự trị cho trường Đại học Việt Nam
(10-10-1945); Sắc lệnh về việc thành lập Hội đồng Cố vấn học chính
(10-10-1945); Sắc lệnh về việc thiết lập một ban đại học Văn khoa tại Hà
Nội (10-10-1945)...
Sau cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội,
cùng với việc ra đời của nhiều Bộ, Bộ Giáo dục cũng được thành lập...Để
thực hiện nhiệm vụ của Nha Bình dân học vụ là cấp tốc xóa nạn mù chữ
trong nhân dân, ngày 4-10-1945, Hồ Chí Minh đã có lời hiệu triệu “Chống
nạn thất học”. Người nhấn mạnh: “Một trong những công việc phải thực
hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Người kêu gọi:“Muốn giữ
vững nền độc lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết
phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Điều thú vị là Hồ Chí Minh cho rằng xóa bỏ nạn mù chữ là tạo nên một
phong trào giáo dục đại chúng. Người chỉ ra rằng học đọc và học viết có
thể được tiến hành bất cứ ở đâu, dùng than, mặt đất hoặc lá chuối làm
bút và giấy. Ai cũng có thể học được. Đặc biệt sự chú trọng của Người
đối với tình trạng bất bình đẳng về điều kiện sống và về thế giới cho
đến nay vẫn mang tính toàn cầu và đúng với mọi lứa tuổi. Chúng ta có thể
thấy tinh thần của thông điệp đó được phản ánh đầy đủ trong báo cáo mới
đây về phổ cập giáo dục cho tất cả mọi người mang tên “Tiếp cận những
người bị gạt sang bên lề xã hội”.
Năm 1955, kỷ niệm 10 năm Bình dân học vụ, Hồ Chí Minh đưa ra một thông
điệp: “Dốt thì dại, dại thì hèn. Vì không chịu dại, chịu hèn, cho nên
thanh toán nạn mù chữ là một trong những nhiệm vụ cấp bách và quan trọng
của nhân dân các các nước dân chủ mới”(1). Trong giai đoạn nhân dân
miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, khi bàn về nhiệm vụ giáo
dục, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm giáo dục “học đi đôi với hành”,
nội dung giáo dục ở từng cấp học tiểu học, trung học, đại học phải góp
phần giải quyết nhiệm vụ của từng giai đoạn lịch sử , phù hợp với lứa
tuổi.
Đó phải là một nội dung toàn diện về văn
hóa, đạo đức, ngoại ngữ, giáo dục thể chất, chuyên môn. Đại học phải đi
sâu nghiên cứu lý luận, góp phần giải quyết được những vấn đề lớn của
cách mạng Việt Nam. Về phương pháp giáo dục, Hồ Chí Minh chú trọng tự
học, học suốt đời, học từ thực tiễn, học nhân dân, học bạn, học thầy,
càng tiến bộ càng phải học.
Giáo dục theo quan điểm Hồ Chí Minh
không chỉ nhằm nâng cao dân trí, giữ nền độc lập, xây dựng đất nước mà
còn là một yếu tố cần thiết cho việc xóa nghèo, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ
em, kiềm chế sự phát triển dân số, đạt được sự bình đẳng giới và bảo
đảm phát triển bền vững, hòa bình và dân chủ. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh “kế hoạch xây dựng lại đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn”. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ
sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân
dân, như phát triển các trường “nửa ngày học tập nửa ngày lao động”.
Theo bà Katherine Muller Marin, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Hà
Nội, từ khi được thành lập vào năm 1946, UNESCO đã đi đầu trong nỗ lực
xóa bỏ nạn mù chữ trên toàn cầu với những chương trình như Giáo dục cho
mọi người. Điều này đã được Hồ Chí Minh nêu lên từ năm 1945 khi Người
trở thành Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Bà nhấn mạnh mối tương liên giữa ý nghĩ của Hồ Chí Minh rằng “mục
tiêu cuối cùng của việc học là trở nên con người theo đúng nghĩa của từ
này với bốn trụ cột của việc học đã được Ủy ban về Giáo dục cho thế kỷ
XXI xác định trong báo cáo của họ trình lên UNESCO trong thập kỷ 1990
như là những nguyên tắc cơ bản cho việc định hình lại giáo dục”. Bốn trụ
cột của giáo dục đã có trong di sản Hồ Chí Minh là:
“Học để biết, ngụ ý cung cấp những công cụ nhận thức cần có để hiểu
biết thế giới và những điều phức tạp của nó một cách tốt hơn, và để có
nền tảng đủ và phù hợp để học tập trong tương lai.Học để làm, có nghĩa
là cung cấp các kỹ năng giúp các cá nhân tham gia một cách có hiệu quả
vào nền kinh tế và xã hội toàn cầu.
Học để làm người, có nghĩa là cung cấp
những khả năng tự phân tích và kỹ năng xã hội để giúp các cá nhân phát
huy đầy đủ nhất tiềm năng của mình về mặt tâm lý – xã hội, về tình cảm
cũng như thể chất, để trở thành một “con người toàn diện” về mọi mặt.
Học để chung sống ngụ ý là hướng các cá nhân vào những giá trị tiềm ẩn
trong các nguyên tắc dân chủ, sự hiểu biết giữa các nền văn hóa, tôn
trọng và hòa bình ở mọi cấp bậc xã hội và quan hệ giữa người với người
nhằm giúp cho các cá nhân và các xã hội cùng sống trong hòa bình và hòa
thuận”.Cũng với tinh thần này, ông Hans D’Orville nhận xét rằng: “Hồ Chí
Minh trở thành một người thầy về cuộc sống tiếp thu trong một thế giới
có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay”
Xu hướng của thế giới toàn cầu hóa hiện nay là học suốt đời, là giáo dục
đại chúng, giáo dục cho mọi người. Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng đã thấy được trở lực trên con đường phát triển nhanh, bền vững
là nghẽn về giáo dục. Đảng ta xác định: “Yêu cầu cấp bách trong thời kỳ
chiến lược tới là tái cấu trúc nền kinh tế trong đó một nội dung quan
trọng là chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, dựa
vào sự gia tăng vốn đầu tư và nguồn chất lượng thấp hiện nay sang kết
hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều
sâu trên cơ sở áp dụng các tiến bộ về khoa học công nghệ, chất lượng
nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại”.
Từ buổi khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(9-1945), Hồ Chí Minh đã nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em”. Quan điểm của Hồ Chí Minh cách đây hơn 65 năm đã nói
trước được điều mà ngày nay thế giới đang rất quan tâm, đó là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Và Việt Nam đang trở lại với tư tưởng của Người khi
Đảng ta khẳng định “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc
sách hàng đầu”.
Nhận thức được vai trò của giáo dục với ý
nghĩa “quốc sách hàng đầu” là điều có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng
biến nó thành hiện thực mới là điều có ý nghĩa quyết định nhất./.
(Theo giaoducthoidai.vn)