10 vụ siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử
Dưới đây là điểm qua những lần siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử.
1. Đức (1921 - 1923)
Nước Đức rơi vào lạm phát trầm trọng nhất vào hồi tháng 10/1923 khi
tỷ lệ lạm phát lê tới 29.500%. Tại thời điểm 12/1923, người ta phải bỏ
ra 4.200 tỷ mác (papiermark) để đổi lấy 1 USD.
Trong những năm 1920, người Đức đã phải dùng đến củi và than để thay
để cho đồng mác đã bị mất giá thảm hại do lạm phát. Lúc đó, dùng tiền để
đốt thậm chí còn rẻ hơn so với củi và than.
Ban đầu, người ta cho rằng nguyên nhân của cuộc siêu lạm phát này là
việc chính phủ Đức in quá nhiều tiền để chi tiêu cho chiến tranh. Nhưng
nguyên nhân thực sự đã được hé lộ vài năm sau. Đó là chính phủ Đức quyết
định vay mượn để chi trả chiến tranh. Năm 1919, giá cả gần như đã tăng
gấp đôi và nước Đức thất trận. Khoản tiền bồi thường sau chiến tranh
được quy định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức phải trả bằng vàng hay
ngoại tệ tương ứng thay vì đồng mác. Để mua số ngoại tệ này, chính phủ
Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ và vì
vậy đã làm tăng tốc độ phá giá đồng tiền.
Tình trạng càng trở nên tồi tệ hơn khi Đức không thể trả được các
khoản nợ và quân đội Pháp và Bỉ đã chiếm thung lũng Ruhr vào tháng
1/1923 để đòi Đức phải trả bằng hiện vật. Sự việc này đã nhanh chóng đẩy
nền kinh tế Đức rơi vào lạm phát phi mã.
Để thoát khỏi tình trạng này, chính phủ Đức đã lập một ngân hàng
trung ương đặc biệt và phát hành loại tiền tệ mới, rentenmark với tỷ giá
4,2 rentenmark/USD và giảm bớt 12 số 0 trên tờ tiền papiermark. Đồng
rentenmark đã giúp bình ổn kinh tế Đức một cách khá hiệu quả.
2. Hy Lạp (1943 - 1946)
Tháng 10/1944, tỷ lệ lạm phát hàng tháng của Hy Lạp lên tới 13.800% và hàng ngày là 10,9%.
Năm 1942, mệnh giá lớn nhất của đồng drachma Hy Lạp là 50.000, nhưng
vào năm 1944, con số này là 100 nghìn tỷ. Chính phủ Hy Lạp đã phải định
giá lại đơn vị tiền tệ của mình và đổi đồng drachma cũ sang đồng tiền
mới với tỷ lệ 50 tỷ : 1.
Thế chiến thứ 2 đã đẩy Hy Lạp vào tình trạng nợ nần chồng chất bởi
chính phủ nước này đã không ngừng in tiền để trang trải cho những khoản
chi phí. Những cuộc chiếm đóng của Đức và Italy đã khiến nền kinh tế Hy
Lạp đình trệ, khiến người dân mất lòng tin vào tiền tệ và thậm chí ngân
hàng trung ương nước này còn phát hành đồng xu franc vàng.
Để chấm dứt lạm phát phi mã, năm 1953, Hy Lạp đã gia nhập hệ thống
Bretton Woods. Tổ chức này giúp ổn định tỷ giá hối đoái, liên kết các
loại tiền tệ quốc tế với đồng đôla Mỹ.
Năm 1946, nước Anh đề xuất kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao gồm tăng
doanh thu từ việc bán hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc
biệt, cải thiện phương pháp thu thuế và thành lập một Ủy ban tiền tệ để
chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Vào đầu năm 1947, giá cả được
bình ổn, niềm tin người tiêu dùng được phục hồi và thu nhập người dân
được nâng cao. Khi đó, Hy Lạp chính thức thoát khỏi siêu lạm phát.
3. Hungary (1945 - 1946)
Tháng 7/1946, lạm phát hàng tháng tại Hungary là 4,19 x 10^16% và
hàng ngày là 207%. Khi đó, tờ tiền mệnh giá lớn nhất tại nước này có tới
20 số 0. Tình hình trầm trọng đến nỗi chính phủ Hungary phải sử dụng
một đơn vị tiền tệ đặc biệt được thiết kế cho trả thuế và bưu chính.
Loại tiền này được điều chỉnh hằng ngày qua radio. Đồng pengo đã bị thay
thế sau đó trong một lần tái định giá tiền, khi đó tổng giá trị của tất
cả các tờ tiền Hungary đang được lưu thông ở nước này có giá trị chỉ
bằng 1/1000 USD.
Chiến tranh chính là nguyên nhân của tình trạng lạm phát phi mã tại
Hungary. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, nền kinh tế của
Hungary đang rất yếu kém, nước này còn mạnh tay áp dụng những chính sách
bao cấp cho khu vực kinh tế tư nhân, gây ra tình trạng thâm hụt ngân
sách nghiêm trọng. Để đáp ứng nhu cầu của ngân sách, tình trạng in tiền
diễn ra ồ ạt.
Để giải quyết tình hình, chính phủ Hungary phải cho ra đời đơn vị
tiền tệ mới – đồng forint – có thể quy đổi trực tiếp ra vàng và ra các
ngoại tệ khác.
4. Trung Quốc (1948 - 1949)
Tháng 5/1949, tỷ lệ lạm phát tháng tại Trung Quốc là 2.178% và ngày
là 11%. Khi đó, mệnh giá tiền tệ lớn nhất là 6 tỷ Nhân Dân Tệ.
Chính quyền dân tộc Trung Quốc nắm quyền kiếm soát các ngân hàng và
không ngừng in tiền để chi trả cho cuộc chiến tranh với Nhật Bản và nội
chiến chống lại lực lượng cộng sản của Mao Trạch Đông.
Để thoát khỏi lạm phát phi mã, Trung Quốc đã phải định giá lại tiền
tệ, theo đó 1 đồng Nhân Dân Tệ mới tương đương với 10.000 của đồng Nhân
Dân Tệ cũ.
5. Chile (1973 - 1975)
Thời điểm tháng 4/1974, lạm phát năm của Chile là 746,29%.
Nguyên nhân của tình trạng lạm phát này là việc tổng thống Salvador
Allende đã quốc hữu hóa các công ty, mỏ dầu, đất động sản tư nhân nhằm
thả nổi nền kinh tế. Việc hạ giá đồng escudos đã khiến nhu cầu đồng đôla
tăng cao.
Chile chỉ thoát khỏi tình trạng này khi ông Augusto Pinochet lên nắm
quyền. Ông cho bán các công ty quốc doanh và phát hành đồng peso mới.
6. Argentina (những năm 1980)
Năm 1989, tỷ lệ lạm phát hàng năm của Argentina lên tới 12.000%. Khi
đó, một peso của năm 1992 có giá trị tương đương 100 triệu peso trước
năm 1983.
Nguyên nhân của tình trạng này là chính phủ nước này chìm trong các
khoản nợ nước ngoài khổng lồ và hạ giá tiền tệ để tăng thặng dư thương
mại.
Để thoát khỏi tình trạng này, chính phủ Argentina đã cố gắng cải tổ
nền kinh tế với các chương trình như Primavera Plan. Tuy nhiên chương
trình này đã không đem lại hiệu quả. Chỉ đến khi Argentina triển khai kế
hoạch BB với các biện pháp ổn định kinh tế thì tình hình lạm phát tại
nước này mới được kiểm soát.
7. Bolivia (1984 - 1985)
Thời điểm từ tháng 5 đến tháng 8/1985, lạm phát năm tại Bolivia đã lên tới đỉnh điểm với tỷ lệ 60.000%.
Không giống như hầu hết các trường hợp lạm phát của nước khác trong
danh sách này, siêu lạm phát tại Bolivia không bắt nguồn từ chiến tranh.
Tình hình chính trị bất ổn tại Bolivia thời điểm đó đã khiến cho công
nghiệp của nước này suy sụp và các khoản nợ nước ngoài khổng lồ đã buộc
chính phủ Bolivia liên tục in tiền.
Để chấm dứt tình trạng này, chính quyền tổng thống Victor-Paz Esonoro
khi đó đã thực hiện nhiều cải cách tiền tệ và tài khóa và chính phủ
cũng ngừng việc in tiền vô tội vạ. Chính quyền tăng nguồn thu ngân sách
bằng cách mở rộng cơ sở thu thuế, tăng giá dầu các mặt hàng khác thuộc
khu vực kinh tế nhà nước.
8. Nicaragua (1987 - 1990)
Vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, người dân Nicaragua
thường nói rằng: họ đang sống trong một đất nước của những triệu phú.
Chính phủ đã in những tờ tiền có mệnh giá tới 100 triệu cordobas. Năm
1987, tỷ lệ lạm phát của Nicaragua là trên 30.000%.
Những cuộc chiến của phe nổi dậy, suy giảm trong xuất khẩu nông
nghiệp và cấm vận của Mỹ đã khiến cho tiền tệ của Nicaragua mất giá thảm
hại so với đồng đôla Mỹ. Chính phủ nước này buộc phải in tiền với mệnh
giá ngày một cao hơn.
Khi mâu thuẫn vũ trang chấm dứt và việc ông Violeta Chamorro thắng cử
tổng thống năm 1990 và đưa ra những biện pháp cải tổ kinh tế, tình hình
lạm phát phi mã tại Nicaragua mới được kiểm soát.
Tổng thống Chamorro đã có công thu hút đầu tư nước ngoài và tìm kiếm sự ủng hộ từ phía Mỹ.
9. Nam Tư cũ (1989 - 1994)
Năm 1994, tỷ lệ lạm phát tháng tại Nam Tư (cũ) lên tới đỉnh điểm là
313.000.000% và lạm phát ngày là 64,6%. Chính phủ nước này đã phải in
những tờ dinar với mệnh giá 500 tỷ. Trong toàn bộ thời kỳ lạm phát, ước
tính giá cả tăng khoảng 5 triệu tỷ lần.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc lạm phát này là những xung đột trong khu
vực, khủng hoảng kinh tế, việc in tiền không kiểm soát và những chính
sách quản lý kém hiệu quả của chính phủ Nam Tư. Tình hình lạm phát trở
nên tồi tệ hơn khi Liên hợp quốc áp dụng những biện pháp trừng phát với
nước này khiến cho sản lượng sản xuất của nước này sụt giảm nghiêm
trọng.
Để kiểm soát lạm phát, năm 1994, chính phủ Nam Tư đã phát hành đồng dinar mới với tỷ lệ 1,3 triệu dinar cũ: 1 dinar mới.
10. Zimbabwe (2000 - 2009)
Trong giai đoạn này, lạm phát tại Zimbabwe có lúc lên tới đỉnh điểm
với tỷ lệ 516 x 10^18 %. Có thời điểm ngân hàng trung ương nước này phải
in những tờ đôla Zimbabwean 100.000 tỷ để người tiêu dùng không phải
mang theo cả bao tải tiền mặt khi đi mua sắm.
Tình trạng lạm phát phi mã nằm ngoài kiểm soát này của Zimbabwe là
do các chính sách của tổng thống Mugabe trong chi tiêu ngân sách chính
phủ và do sự quản lý yếu kém của chính phủ Zimbabwe. Nhưng ông Mugabe
lại đổ lỗi các biện pháp trừng phạt của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU).
Ông cho rằng chính điều này đã gây ra tình hình kinh tế hỗn loạn tại
Zimbabwe.
Năm 2009, chính phủ nước này đã từ bỏ đồng đôla Zimbabwe và cho phép sử dụng đồng rand của Nam Phi và đồng đôla Mỹ.
(Theo Dantri.com.vn)