130 năm thăng trầm chữ Việt
Kỳ 1: Hai thế kỷ và một quyết định
Nghị định trên ra đời sau 20 năm Pháp xâm chiếm nước ta và sau thế kỷ ra đời và phát triển của chữ Việt.
 |
Trang đầu quyển Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes |
Vì sao người Pháp ra nghị định 6-4-1878?
Điều này được nói rõ trong nội dung nghị định. Nguyên văn như sau:
“Xét rằng chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin
ngày nay đã khá phổ thông trong các tỉnh Nam kỳ, là thứ chữ dễ học hơn
chữ Nho và tiện lợi nhiều so với chữ Nho trong việc làm cho những giao
dịch giữa các quan cai trị với dân bản xứ được trực tiếp hơn. Xét rằng
việc dùng hợp pháp thứ chữ đó chỉ làm cho dân chúng dễ đồng hóa với
chính quyền ta, và vì thế thật là một đường lối chính trị tốt nếu bắt
buộc dùng nó trong các giao dịch chính thức. Tuy nhiên, xét rằng một cải
cách quan trọng như thế không thể thực hiện được ngay tức khắc, và để
thực hiện nó cần có sự cộng tác của những tầng lớp lãnh đạo trong dân
chúng. Chiếu đề nghị của quyền giám đốc nội vụ, sau khi hội đồng tư vấn
đã được hội ý kiến, nay ra nghị định:
Điều 1: kể từ ngày 1-1-1882 tất cả những văn kiện chính
thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị...sẽ được
viết, ký và công bố bằng chữ mẫu tự Latin.
Điều 2: kể từ ngày trên, không một tuyển dụng nào được
thi hành, không một thăng trật nào được cho phép, trong ngạch phủ,
huyện, tổng đối với bất cứ ai không ở trong tình trạng viết được chữ
quốc ngữ. (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc)
Đến đầu năm 1881, thống đốc Nam kỳ lúc đó là Le Myre de
Vilers đã ký quyết định “nhắc lại” việc dùng chữ quốc ngữ trong hệ
thống hành chính. “Vì lời nghị ngày mồng 6 tháng 4-1878, từ ngày mồng 1
janvier 1882, về các tờ giấy làm việc quan buộc phải viết ra bằng quốc
âm chữ Langsa; Xét vì lời nghị nầy phải thi hành lần lần, vì trong lúc
người ta biết chữ quốc âm Langsa đủ dùng trong các tổng” (Gia Định Báo
ngày 21-2-1881). Và ngày 24-10-1881 cũng trên tờ Gia Định Báo phần tạp
vụ, văn phòng Nha nội vụ đã đăng thông báo “nhắc lại”. “Ông directeur de
l’interieur (giám đốc Nha nội vụ, người đương thời gọi là quan lại bộ
thượng thơ), làm lời rao cho ai nấy đặng hay, lời nghị ngày mồng 6 avril
1878, buộc từ ngày mồng 1 janvier 1882 trong những giấy lá việc quan mà
viết theo tiếng An Nam đều phải dùng chữ Langsa mà thôi”.
Và ngày 30-1-1882, thống đốc Nam kỳ Le Myre de Vilers
ra nghị định nhắc lại lần cuối cùng: “kể từ ngày hôm nay, việc chỉ dùng
những mẫu tự Pháp trở thành bắt buộc trên toàn cõi Nam kỳ thuộc Pháp,
trong những giấy tờ chính thức viết bằng tiếng An Nam”. (Nguyễn Văn
Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc).
Có thể nói, kể từ ngày 1-1-1882, người Việt bắt đầu
chính thức sử dụng thứ chữ viết từng được gọi là “chữ quốc ngữ, quốc ngữ
hay tiếng An Nam dùng chữ Langsa”, thứ chữ viết hôm nay người Việt dù
sống ở đâu, trên đất nước VN hay nơi nào đó trên thế giới đều xem là văn
tự chính thống của người Việt.
Để có được điều đó, chữ Việt đã trải qua nhiều thăng trầm.
Ngược dòng chữ Việt
Chúng ta đều biết chữ Việt do những giáo sĩ phương Tây
tới Việt Nam truyền đạo sáng tạo vào thế kỷ 17. Và người được vinh danh
nhiều nhất chính là giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Ngoài bức tượng nhỏ của ông dựng trong khuôn viên 161
Lý Chính Thắng (quận 3), ông còn có tên đường ở ngay trung tâm TP.HCM.
Thực tế có phải Alexandre de Rhodes là người duy nhất sáng tạo chữ Việt?
Không hoàn toàn như vậy.
Sáng tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với
mục đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Theo Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc
ngữ đầu tiên của Nguyễn Khắc Xuyên, chữ Việt manh nha xuất hiện từ năm
1625-1626 trong một bức thư của giáo sĩ F. Buzomi, người Ý. Năm 1627,
giáo sĩ Baldinotti đã xuất bản một bản Điều trần về xứ Đàng Ngoài có ghi
một vài chữ quốc ngữ. Năm 1631, trong quyển Điều trần về xứ Đàng Trong
của giáo sĩ Cristoforo Borri, người Ý, đã xuất hiện nhiều câu quốc ngữ
như scin (xin), ciàm (chẳng), gnoo (nhỏ), chiam (chăng), tlom (trong),
bua (vua)...
Tuy nhiên, công lớn lại thuộc về các giáo sĩ Bồ Đào
Nha. Giáo sĩ được đương thời coi là “thầy tiếng Việt” là Francesco de
Pina. Hai “học trò” của Pina được thừa nhận có công lớn là giáo sĩ
Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa. Hai giáo sĩ này là người đầu tiên
viết từ điển Việt - Bồ và Bồ - Việt. Hai ông sau khi rời Hội An, định cư
ở Macau gần 10 năm. Không may Gaspar d’Amaral tử nạn trên biển Macau
vào tháng 2-1646 khi trên đường đến VN. Antonio Barbosa cũng mất một năm
sau đó.
Trước khi mất họ để lại trong nhà thờ San Pauli ở Macau
những quyển từ điển Việt - Bồ - Latin mà họ đã sáng tạo. Và giáo sĩ
Alexandre de Rhodes là người mang từ điển đó về châu Âu (Phạm Văn Hường -
Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ). Đến năm 1651, quyển Từ điển Việt - Bồ -
La ra đời dưới cái tên tác giả Alexandre de Rhodes. Và đây là cuốn từ
điển tiếng Việt đầu tiên xuất hiện trên thế giới và ông Đắc Lộ (tên
tiếng Việt của Alexandre de Rhodes) được công nhận là người có công
trong việc sáng tạo chữ Việt.
Những sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây không thể
không có sự góp phần của người bản xứ. Nhiều tài liệu đã nhắc tới “những
người thầy không tên” của các giáo sĩ. Theo xơ Jean Berchmans Minh
Nguyệt trong tập san MISS của Vatican, giáo sĩ Đắc Lộ đã học tiếng Việt
với “một người thầy trạc 10-12 tuổi”, người sau này trở thành thầy giảng
đạo giúp việc cho các giáo sĩ.
Giáo sĩ Đắc Lộ đã nói về “thầy” của mình: “Chỉ trong
vòng ba tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác
nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ”.
Những tài liệu khác cũng cho biết “thầy” của các giáo
sĩ Amaral và Barbosa có tới 14 người. Những cái tên như Trâm, Văn Triều,
Sang, Văn Tang, Cai, Văn Nhất... xuất hiện trong một tài liệu của Dòng
Tên mang tên “Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam” (Huỳnh Ái
Tông - Nguồn gốc chữ quốc ngữ).
Chữ Việt thời kỳ đầu khác xa với chữ Việt hôm nay, thậm
chí hôm qua. Những từ “oũ” (ông), “kẻ hằii” (kẻ hầu), “bên đoũ đa” (bên
Đống Đa)... vẫn còn nhiều âm hưởng nước ngoài đối với người Việt. Tới
khi xuất hiện trong Từ điển Việt - Bồ - La năm 1651 cũng còn những
khoảng cách xa với chữ Việt mà chúng ta đang dùng: “bao nheo” (bao
nhiêu), “tôi blả bấy nheo” (tôi trả bấy nhiêu), “muấn” (muốn), “đức chúa
Blời” (đức Chúa Trời), “iêo” (yêu), “khoăn đã nao” (khoan đã nào),
“nếo” (nếu)...
Không chỉ có Từ điển Việt - Bồ - La, giáo sĩ Đắc Lộ còn
được ghi nhận là có công đầu trong việc sáng tạo chữ Việt từ quyển Phép
giảng tám ngày (1651) và phần “tiểu lược về tiếng An Nam hay tiếng Bắc
kỳ” còn gọi là cuốn văn phạm VN đầu tiên (in chung với cuốn từ điển).
Nếu Phép giảng tám ngày là cuốn sách chuyên về đạo đầu tiên của quốc ngữ
thì cuốn văn phạm là sự sáng tạo không còn nghi ngờ gì nữa và là của
riêng ông.
“Tất cả tinh thần của tiếng nói là ở các dấu lên xuống”
- giáo sĩ Đắc Lộ nhận xét. Có thể chính nhờ cuốn văn phạm này mà các
giáo sĩ, người học chữ Việt đời sau cảm thấy dễ dàng hơn.
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes sinh năm
1591 (một số sử liệu khác ghi năm 1593) tại Avignon, miền Nam nước Pháp.
Ông gia nhập Tập viện Dòng Tên tại Roma. Sau sáu năm giảng đạo tại Goa
và Macau, đầu năm 1625 ông cùng bốn linh mục Dòng Tên và một tín hữu
Nhật Bản cập bến Hội An, bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc
Lộ. Năm 1645 ông bị trục xuất khỏi VN. Năm 1651, cho xuất bản quyển Từ
điển Việt - Bồ - La. Ông mất tại Iran năm 1659.
(Theo tuoitre.vn)