130 năm thăng trầm chữ Việt - Kỳ 3: Cưỡng bách và phản kháng
 |
Một tờ khai sinh năm 1938 ở miền Bắc có đến bốn dạng
chữ: chữ Nôm, chữ quốc ngữ, dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Hán -
Ảnh: Wikipedia |
Thế nhưng đâu là nguyên nhân chính? Bởi đã là người
chiến thắng, Pháp có nhiều hơn một trong việc lựa chọn ngôn ngữ để cai
trị, ngoài chữ nho. Trong đó tiếng Pháp cũng là một lựa chọn.
Thế nhưng người Pháp đã chọn chữ quốc ngữ.
Vì sao người Pháp chọn quốc ngữ?
Đây là phần “tối” nhất trong nhiều nghiên cứu về quốc
ngữ trong văn học sử của nước ta. Có không nhiều nghiên cứu nêu rõ
nguyên nhân, lý do thực dân Pháp “quyết liệt” ép người Nam kỳ học quốc
ngữ thay vì tiếng Pháp. Chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu của Nguyễn
Văn Trung vấn đề này.
“Ở đây cần để ý một điều là trước khi người Pháp xâm
chiếm nước ta, các nhà truyền giáo thuộc nhiều quốc tịch châu Âu đã theo
đường lối “tôn trọng thích nghi văn hóa, phong tục những nước bị truyền
giáo (nhất là các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên)”. Chính trong tinh
thần đó mà họ sáng chế ra chữ quốc ngữ. Đến thời Pháp xâm lược, các nhà
truyền giáo Dòng Tên phải nhường chỗ cho Hội thừa sai Paris và những
người này đều là người Pháp, theo một đường lối truyền giáo cứng rắn chủ
trương xóa bỏ, tiêu diệt tất cả những gì là phong tục, văn hóa, tư
tưởng của các nước bị truyền giáo không hợp với giáo lý Thiên Chúa. Hơn
nữa, họ còn đồng hóa quyền lợi nước Pháp với quyền lợi của đạo nên họ đã
tích cực góp phần vào việc thiết lập chế độ thực dân”. (Nguyễn Văn
Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời đầu Pháp thuộc).
Với tinh thần đó, các giáo sĩ đã thúc ép chính quyền Pháp chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Pháp.
Không chỉ thúc ép đội quân viễn chinh Pháp trong việc
bắt buộc triều đình nhà Nguyễn chấp nhận điều khoản mà cả triều đình lẫn
giới sĩ phu lúc bấy giờ không chịu chấp nhận là “tự do truyền đạo”, mà
các thừa sai còn thúc ép Pháp phải buộc người Việt “sử dụng chữ quốc
ngữ”.
Theo Nguyễn Văn Trung, Lanessan đã ghi: “Tôi còn giữ
trong tay một thư của giám mục Puginier, trong đó ngài trình bày mục
đích việc phiên âm bằng chữ Latin một cách thật rõ rệt. Ngài nói khi
thay thế chữ nho bằng chữ quốc ngữ, Hội thừa sai nhằm mục đích cô lập
các giáo hữu. Những người này sẽ không còn có thể đọc được những tác
phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và sẽ không thể thư từ gì được với bất cứ
một sĩ phu Tàu hay ta nào”.
Đó là nhận định của người Việt và giới giáo sĩ. Còn
quan điểm của chính quyền Pháp? Có không nhiều tài liệu để thẩm tra vấn
đề này. Có lẽ thông tư ngày 10-4-1878 của giám đốc Nha nội vụ Béliard
thể hiện rõ nhất quan điểm của Pháp: “Chúng ta sẽ rất lợi cả về mặt
chính trị lẫn thực tế, nếu làm tiêu tan dần dần chữ nho mà việc dùng thứ
chữ đó chỉ có thể có một ảnh hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa
mà chính phủ đang dồn mọi nỗ lực thực hiện”.
Tháng 9-1864, đô đốc Lagrandière đã báo cáo: “Tôi có
mọi lý do để hi vọng, nếu việc theo học các trường của chúng ta tiếp
tục, chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa đầy một năm, một nghìn thanh
niên An Nam biết đọc và biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự Latin; nhờ
đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế độ quan lại, và
chúng ta sẽ tự mình gỡ bỏ được lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có
khuynh hướng gây xáo trộn” (Milton E Osborne - Giáo dục và chữ quốc ngữ -
sự phát triển một trật tự mới 1859-1905 do Ngô Bắc dịch).
Chính vì vậy, ngay sau khi Hòa ước Nhâm Tuất ký chưa
ráo mực, khi ba tỉnh miền Tây còn nằm trong tầm ngắm và đang lăm le đánh
chiếm thì Pháp đã cho ra đời tờ báo tiếng Việt ở Sài Gòn. Đó là tờ Gia
Định báo. Tờ báo này do E. Potteaux, thông ngôn tiếng Việt hạng nhất của
đô đốc, làm “tổng tài” (tổng biên tập).
Sự phản kháng
Song việc “quốc ngữ hóa” Nam kỳ diễn ra không hoàn toàn
thuận buồm xuôi gió. Phía những người theo Pháp và những người được coi
là giàu có không phải ai cũng dễ dàng cho con em đi học chữ quốc ngữ.
Có thể do những lời đồn thổi về việc “người Công giáo
không thờ cúng ông bà” xuất phát từ chuyện Đông cung Cảnh, học trò của
Bá Đa Lộc, sau khi từ Pháp về theo đạo Công giáo và “từ chối đến tông
miếu” (thực lục nhà Nguyễn) nên nhiều người Nam kỳ sợ con cháu mất gốc
mà trốn tránh việc đi học chữ quốc ngữ, còn vì đó là chữ của đạo Công
giáo, những người đi theo Pháp ngay khi Pháp tới Nam kỳ.
Chưa kể người có liêm sỉ thì khó thể chấp nhận bất cứ
điều gì của quân cướp nước đề ra ngay trong lúc nhục mất nước còn nóng
hôi hổi!
Do vậy, việc đi học rất ư là hành chính. Thực dân ra
lệnh tận làng xã “bắt trẻ con đi học chữ quốc ngữ như bắt lính”. Còn
hương chức hội tề thì “khuyến dụ, cưỡng ép trẻ con đi học” để được thăng
thưởng. Rất nhiều người đã mướn hoặc bắt đầy tớ trong nhà đi học thay
con em mình. Câu ca dao chống việc học chữ quốc ngữ phổ biến khá rộng ở
miền Nam có thể xuất phát từ thời bấy giờ: Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu. Anh về đi học chữ nhu. Chín trăng em đợi mười thu em chờ. Phải học chữ nhu (chữ nho) thì em mới chờ còn không thì sẽ...
Eliacin Luro, thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền
Pháp mới đặt ở Nam kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam dùng
cho trường các viên chức tập sự Pháp, đã thừa nhận trong bài giáo dục số
38 về Giáo dục quốc dân viết năm 1873: “Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải
gửi một số học sinh quy định đến trường...
Hậu quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ
của chúng ta kiểu như họ mộ lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của
học sinh và công cuộc bắt buộc giáo dục của chúng ta tính như một thứ
thuế đánh thêm vào dân” (Nguyễn Phú Phong - tranh luận về việc áp dụng
chữ quốc ngữ). Gia Định báo số ra ngày 8-3-1874 ghi “các ông ấy
cũng biết nhà trường lập ra đây để cho các học trò Annam học thì có
nhiều điều ngăn trở kể chẳng xiết”.
Phía các sĩ phu, sự chống đối diễn ra dữ dội hơn. Năm
1885, một số thân hào nhân sĩ đã gửi thư thỉnh nguyện đến Hội đồng quản
hạt Nam kỳ “đề nghị bãi bỏ chữ quốc ngữ”. “...Theo thiển ý chúng tôi,
hiện nay chỉ có hai thứ tiếng có thể được ở Nam kỳ, tiếng Pháp mà chúng
tôi muốn học và tiếng Annam nôm na mà chúng tôi đều biết viết bằng chữ
Nôm... Quý vị hãy đoán xem chúng tôi lúng túng thế nào mỗi khi chúng tôi
nhận được những lệnh viết bằng thứ chữ (quốc ngữ) trên, chúng tôi phải
chạy kiếm hàng chục người thông ngôn mà chúng tôi phải trả tiền, để rồi
rốt cục họ đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những gì người
ta muốn truyền lệnh cho chúng tôi”.
Nổi bật trong thời kỳ này là nhà thơ Phan Văn Trị với
cuộc bút chiến giữa ông và Tôn Thọ Tường, một trí thức Hán học đi theo
thực dân Pháp. Cuộc bút chiến diễn ra khá gay gắt của hai phe trở thành
giai thoại trong làng văn ở Nam kỳ.
Với Phan Văn Trị và các đồng chí của ông như Huỳnh Mẫn
Đạt, Lê Quang Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa...việc theo Pháp của người trí thức
là không thể chấp nhận được.
(Theo tuoitre.vn)