Bà Nguyễn Thị Minh Tuyết , giảng viên Khoa Xã hội học - Học viện Báo
chí truyền thông đã có một nghiên cứu khá thú vị và đáng suy nghĩ về vấn
đề này.

Hình minh họa trong SGK luôn đặt khuôn mẫu về phân công lao
động giữa nam và nữ khiến khó thực hiện về việc bình đẳng giới như yêu
cầu của xã hội
|
Chỉ nam giới mới là nhà khoa học
Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phân tích nội dung 10 cuốn SGK
tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5 hiện hành. Theo bà Tuyết Minh, kết quả
nghiên cứu cho thấy sự xuất hiện của cả nhân vật chính và phụ trong 487
bài học của 10 tập sách nói trên cho thấy: phụ nữ thường tham gia vào
những ngành nghề đơn giản, ít đòi hỏi chuyên môn, mà nếu là trí thức thì
lại luôn gắn với giáo viên. Nam giới thường xuất hiện ở tất cả các lĩnh
vực đòi hỏi yêu cầu trình độ chuyên môn cao cũng như thể lực, sức khỏe
tốt.
|
Bình đẳng giới sẽ không được thực hiện nếu thế hệ sau vẫn được xã hội hóa theo khuôn mẫu mang định kiến về giới

|
|
Bà Nguyễn Thị Minh Tuyết, giảng viên Khoa Xã hội học - Học viện Báo chí truyền thông |
Đến 8/8 bài đề cập đến nghề đòi hỏi trình độ, trí tuệ, sáng tạo như:
nhà nghiên cứu, nhà khoa học đều là nam giới. Hoàn toàn không có nữ giới
là nhà nghiên cứu hay nhà khoa học. Nam giới tham gia lĩnh vực này vẫn
là tuyệt đối. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 16/19 bài đề
cập đến các nghề đòi hỏi chuyên môn, trí tuệ, sức khỏe như: bộ đội,
công an, thủy thủ, phi công… đều là nhân vật nam, hoàn toàn không có sự
tham gia của nữ giới.
Phụ nữ vẫn gắn liền với may vá, nội trợ
Nữ giới trong nhóm nghề nghiệp trí thức duy nhất mà SGK đề cập là
giáo viên với 23/34 bài xuất hiện nữ giáo viên, 30/38 tranh minh họa
giáo viên là nữ so với 4/38 tranh thể hiện nhân vật nam, 4 tranh còn lại
thể hiện cả nhân vật nam và nữ. 7/7 tranh minh họa trong ngành nghề,
công việc đòi hỏi sự khéo léo, đảm đang, cần cù (như may, dệt, khâu vá…)
đều là nữ; nghề lao công, hình ảnh nữ cũng chiếm vị trí tuyệt đối!
Nghề nông, một nghề vốn được xem là vất vả, mệt nhọc và thu nhập thấp
thì tỷ lệ phụ nữ cũng xuất hiện nhiều hơn nam giới với 12/22 bài.
Trong cái nhìn rộng hơn, nghiên cứu của bà Nguyễn Thị Minh Tuyết cũng
chỉ ra rằng, những hình ảnh minh họa và nội dung bài học trong SGK
tiếng Việt dành cho học sinh tiểu học cũng cho thấy phạm vi hoạt động
của nữ giới chủ yếu là hướng nội (trong nhà, bếp, sân nhà…); còn nam
giới thì có mặt ở hầu khắp các hoạt động hướng ngoại.
Nữ hướng nội nam hướng ngoại

|
Từ kết quả phân tích trên, bà Tuyết cho rằng điều này sẽ tạo ra và
duy trì khuôn mẫu về phân công lao động theo giới giữa nam và nữ trong
gia đình và xã hội theo hướng: nam giới được gán cho là thích hợp với
chức năng chuyên môn (công cụ, nghề nghiệp) để tạo ra của cải vật chất;
còn phụ nữ thì chỉ thích hợp với chức năng biểu đạt (văn hóa, tình cảm)
để tạo ra giá trị về tinh thần… “Và như vậy, bình đẳng giới sẽ không
được thực hiện nếu thế hệ sau vẫn được xã hội hóa theo khuôn mẫu mang
định kiến về giới”, bà Tuyết nhận định.
Bộ GD-ĐT đang nghiên cứu để điều chỉnh
Trao đổi với PV Thanh Niên về vấn đề này, đại diện Vụ
Giáo dục tiểu học (Bộ GD-ĐT) cho biết: Hiện Bộ đang giao cho Viện Khoa
học giáo dục nghiên cứu về vấn đề này ở SGK của tất cả các cấp học chứ
không riêng bậc tiểu học. Khi có kết quả nghiên cứu sẽ đưa ra giải pháp
cụ thể, nếu thực sự cần thiết thì phải điều chỉnh cho phù hợp. Tuy
nhiên, Bộ GD-ĐT cũng khuyến cáo: giáo viên không nên coi SGK là pháp
lệnh; những giải thích, dẫn chứng từ thực tế cuộc sống của giáo viên
giúp bài học sinh động, dễ hiểu là cần thiết hơn rất nhiều.
|
(Theo thanhnien.com.vn)