Theo Chỉ thị của Tỉnh ủy Gia Ðịnh, ngày 1-3-1946, Chi đội 6 Vệ quốc Ðoàn
- bộ đội chủ lực tỉnh Gia Ðịnh ra đời tại Chiến khu An Phú Ðông, tập
hợp các thanh niên yêu nước, cách mạng trong vùng thành một lực lượng.
Lúc đầu, Chi đội trưởng Chi đội 6 là đồng chí Nguyễn Ðăng Dung, Chi đội
phó là đồng chí Nguyễn Văn Công, Chính trị viên là đồng chí Phạm Văn
Khung (sau là Bí thư Tỉnh ủy Gia Ðịnh). Chi đội 6 có 3 đội chủ lực là
đại đội 5, 10, 15.
Ðại đội 5 của quận Gò Vấp có Lê Văn Thọ gồm số đông là công nhân từ Sài Gòn tham gia, quân số ban đầu khoảng hơn 200 người.
Từ năm 1946 đến 1955, anh lần lượt trải qua các nhiệm vụ: làm liên lạc,
rồi Tiểu đội trưởng bộ đội địa phương Gò Vấp, Trung đội trưởng Ðại đội 1
thuộc Trung đoàn 5.
Ðứng chân trên các địa bàn Gò Vấp - An Phú Ðông anh đã có kinh nghiệm
từng là 1 giao liên trong Thanh niên Tiền phong nên đã được tổ chức cho
tham gia vào các trận đánh lịch sử bảo vệ chiến khu An Phú Ðông.
 |
Anh hùng Lê Văn Thọ |
Ðó là các trận đánh ghi nhận bao sự dũng cảm, kiên cường, như trận đánh
chiến đấu tiêu diệt địch ở cầu Bến Phân và dọc sông Bến Cát, trận đánh
cầu Ðình ngày 1-2-1946, đặc biệt là trận chống càn binh lính thực dân
Pháp đổ quân ngày 1-3-1946.
Ðây cũng là trận đánh mà Chi đội 6 mặc dù vừa mới thành lập đã đánh lui
trận càn lớn nhất ở Nam Bộ vào bấy giờ, để mở màn cho các trận tập kích
binh lính Pháp nằm vị trí sát nách Sài Gòn.
Chiến khu An Phú Đông nằm phía Đông Bắc thành phố, gồm vùng đất thuộc 2
xã An Phú Đông và Thạnh Lộc (quận Gò Vấp) cách trung tâm Sài Gòn 4 km
đường chim bay, cách Gò Vấp 1 km đường bộ, nằm về phía hữu ngạn, lọt
giữa một bên phía Đông là sông Sài Gòn, một bên là Rạch Cát chảy vòng từ
phía Tây lên phía Bắc.
An Phú Đông và Thạnh Lộc như 1 cù lao có dáng hình bầu dục rộng khoảng 10 km2.
Đây là vùng địa hình có vườn cây và đồng ruộng, sông rạch, bờ mương
chằng chịt, xung quanh có bờ bao nước sông vào ra theo thủy triều lên
xuống của sông Sài Gòn. Đất đai màu mỡ, vườn cây, ăn trái xanh tốt, trù
phú, dân cư tập trung đông đúc.
Từ đây, có thể giao lưu thuận tiện về phía Tây Bắc Thạnh Lộc đến Quới
Xuân, Nhị Bình, Bình Lý, Tân Mỹ (Hóc Môn) sang phía Đông sông Sài Gòn
các xã Vĩnh Phú, Tam Bình nối liền lên xã Tân Đông Hiệp (Dĩ An); phía
Đông Nam có Hiệp Bình, Bình Lợi nối liền với xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ
Tây.
Thực hiện chủ trương “lập những khu căn cứ kháng chiến ngay ở ngoại ô,
phụ cận Sài Gòn”, “Không rút đi xa, cố bám đất, bám dân, làm chiến tranh
du kích, làm chiến tranh nhân dân” của Tỉnh ủy Gia Định đề ra từ đầu
cuộc kháng chiến, sau ngày 5 tháng 10 năm 1945, đại bộ phận các cơ quan
quân, dân, chính, đảng và sở chỉ huy các đơn vị vũ trang tỉnh Gia Định
và quận Gò Vấp chuyển lần về An Phú Đông -Thạnh Lộc.
Kế đến, sở chỉ huy mặt trận tiền tuyến miền Đông, trụ sở Tổng công đoàn
Nam Bộ, Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn và nhiều tổ chức kháng chiến khác,
kể cả Ủy ban kháng chiến xã Hanh Thông cũng lần lượt rút về đây xây dựng
căn cứ. Nhân dân An Phú Đông -Thạnh Lộc sau khi lập trạm đón tiếp từng
đoàn người tản cư từ thành phố ra, lại nhanh chóng bắt tay vào việc tiếp
tế, bố trí nơi trú đóng của các cơ quan, đơn vị.
Nhân dân ấp Đông Nhứt chọn những ngôi nhà khang trang nhất, những gian
rộng rãi, kể cả chỗ gần nơi thờ cúng thiêng liêng, bàn tủ, giường chiếu
và tiện nghi có thể có được giành cho cán bộ, chiến sĩ ăn ở, làm việc.
Thanh niên phụ nữ các ấp tham gia tiếp tế, cấp dưỡng.
Nam giới từ 18 đến 50 tuổi luân phiên canh gác những nơi xung yếu ven
sông Sài Gòn và những giao lộ dẫn vào xã. Các trạm gác được lập dọc theo
bờ sông Sài Gòn từ Vàm Thuận đến Thạnh Lộc, nối báo với nhau bằng tín
hiệu mõ, tù và.
Các công sự, ụ chiến đấu được đào khắp các nơi. Tại đây, Tỉnh ủy Gia
Định, Ủy ban kháng chiến tỉnh (do Nguyễn Văn Dung và Nguyễn Văn Công làm
chủ tịch và phó chủ tịch) đã đề ra những chủ trương, chỉ đạo cuộc kháng
chiến trong những tháng cuối năm 1945, đầu năm 1946.
Tổng Công đoàn Nam Bộ (do Lý Chính Thắng làm Tổng thư ký) lập trạm đón
tiếp công nhân từ nội thành ra. Tại nhà ông Tư Quyền là thân hào làng
Thạnh Phú, tòa soạn báo “Cảm tử” xuất bản 4.000 tờ mỗi số (mỗi tháng 6, 7
số) bí mật đem vào phát hành trong thành phố và gửi đi các tỉnh Nam Bộ.
Xưởng vũ khí gần nhà ông Mười Bò và trong chòi giữ thơm của ông Mười
Nguyễn mỗi ngày nhồi được 50 viên đạn, sản xuất 50 lựu đạn, và một số vũ
khí thô sơ khác.
Cũng từ đây, các đơn vị vũ trang Lý Thường Kiệt, Ký Con, Trần Cao Vân,
Quang Trung, Nguyễn An Ninh… xuất phát đi hoạt động đánh giặc ở Gò Vấp,
Bà Chiểu, Phú Nhuận, Tân Định.
Giặc Pháp nhiều lần đưa quân tấn công An Phú Đông hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và các lực lượng kháng chiến ở đây.
 |
Sân bay Tân Sơn Nhất rực lửa |
Trong cuộc càn đầu tiên vào căn cứ này ngày 15 tháng 12 năm 1945, quân
Pháp cùng quân Anh, Ấn có pháo binh, máy bay, tàu chiến yểm trợ bao vây
chặt ấp Đông Nhứt. Hàng ngàn tên sục vào một khu vực nhỏ lục soát, bắn
giết, đốt phá, từ sáng sớm đến 1 giờ chiều.
Chúng đốt phá hơn 30 nhà dân, phá hủy hơn một nửa số lương thực thực
phẩm, doanh trại, kho tàng, ghe xuồng, bắt đi 35 thanh niên và 10 cụ
già.
Sau trận càn, Pháp đóng chung quanh An Phú Đông một loạt đồn bốt: đồn
Bình Lợi, bót ông Dầu, bót Bình Phước, bót Lập Be, bót Vĩnh Phú (Lái
Thiêu), bót Bến Cát, Bót An Nhơn, bót Ba Thôn, chốt trục giao thông Gò
Vấp đi Nhị Bình và Lái Thiêu.
Thực hiện chỉ thị của khu về xây dựng căn cứ địa, hội nghị cán bộ tỉnh
Gia Định tại vườn Cau Đỏ, xã Thạnh Lộc (ngày 25 tháng 12 năm 1945) quyết
định chính thức thành lập chiến khu An Phú Đông.
Cụm danh từ “Chiến khu An Phú Đông” cùng với những câu thơ của nhà thơ
Xuân Miễn trở thành biểu tượng của cuộc chiến đấu gian khổ những ngày
đầu kháng chiến ở ngoại vi Sài Gòn năm 1946:
“Bạn đã từng nghe An Phú Đông
Một làng nho nhỏ ở ven sông.
Một năm chinh chiến! Ôi chinh chiến!
Sóng nước Sài Gòn nhuộm máu hồng.
Từ đấy đất này vang tiếng súng
Âm thầm mưa gió… bóng quân đi
Trên đường gặp lại bao nhiêu mộ
Của những người đi chẳng trở về
An Phú Đông! Đây An Phú Đông!
Trả lời tiếng gọi của non sông
Trẻ già đã biết hi sinh hết.
Biết trả thù chung đổ máu hồng”.
Trận đánh kho bom Tân Sơn Nhất làm chấn động nước Pháp
Năm 1952, tỉnh Gia Định mở chiến dịch Hòa Bình, Quận đội Gò Vấp đã cùng
phối hợp lực lượng chủ lực tổ chức trận đánh vào kho bom An Hội trong
sân bay Tân Sơn Nhất và tổ chức đã quyết định giao cho đồng chí Lê Văn
Thọ nhận nhiệm vụ quan trọng chỉ huy trận đánh này.
Từ kinh nghiệm và thực tế của thời kỳ làm người lính giao liên, anh đã
chỉ đạo tổ trinh sát đặc công bố trí quân giữ bí mật đến giờ G, nổ súng
đánh táo bạo đánh vào kho bom này. Một trong những mục tiêu quan trọng
được địch canh gác rất nghiêm ngặt.
Nhiều đồn bót bao bọc phía bên ngoài, nhiều lớp hàng rào dây kẽm gai,
bãi mìn, bãi cát trảng dài, đường xe đi tuần, một con mương đào rất rộng
sâu hút đầu người, dưới đáy cắm nhiều chông sắt tiếp nối là một bức
tường thành khá cao và dày, bọn địch bố trí hệ thống đèn pha chiếu sáng
suốt đêm với 1 đại đội lính Âu- Phi thường xuyên tuần tiễu, súng đạn lăm
lăm trên tay.
Việc tổ chức giao cho Lê Văn Thọ nhiệm vụ đặc biệt này không phải là sự
chọn lựa ngẫu nhiên. Anh sinh ra và lớn lên, làm giao liên tại nơi đây
nên rất thành thạo mọi ngả đường tiến đánh và rút lui.
Năm 1949, Lê Văn Thọ từng nhận nhiệm vụ trinh sát và đánh cầu Lái Thiêu
trên đường số 13, ở đây địch cũng canh phòng rất cẩn mật đến một con
kiến không cũng không dễ qua lọt.
Nhưng với tinh thần quả cảm, kiên trì trinh sát điều tra, đến lần thứ
tư, Lê Văn Thọ và đồng đội đã đánh sập cầu. Để chuẩn bị tốt nhất cho
trận đánh cảm tử vào kho bom sân bay lần này, ròng rã suốt 4 tháng liền
kiên trì điều tra, nghiên cứu, trinh sát theo dõi tình hình và qui luật
canh phòng của kẻ địch.
Ngày 20-3-1952, Lê Văn Thọ đã cùng với đồng chí Sắc là trinh sát của đại
đội bí mật đột nhập vào kho bom gài mìn vào giữa kho bom và những nơi
xung yếu trong các kho đạn xung quanh, sau đó cho giật nổ tung kho bom
này.
Sau tiếng nổ long trời lở đất, khói lửa mịt mù bao phủ cả sân bay, cả
tiểu đội tiếp ứng đồng loạt nã đạn liên tiếp tấn công và bảo vệ trinh
sát rút lui an toàn.
Vụ nổ kho bom đã làm rung động cả bầu trời thành phố. Trận đánh đã làm
hơn 180 tên giặc canh giữ kho đạn bị tiêu diệt, phá hủy hoàn toàn 700
quả bom cùng 1 khẩu đại bác, 3 tháp canh sập đổ và 16 dãy nhà kho bị
đánh sập, cháy rụi hoàn toàn.
Trận đánh này đã gây cho địch tổn thất nặng nề, nhưng đã làm nức lòng
đồng bào ta, cổ vũ toàn chiến trường Nam Bộ xốc tới tiêu diệt quân xâm
lược.
Trận đánh đã mở đầu cho 1 phong trào quyết tâm tiêu diệt kẻ thù ngay
trên địa bàn quê hương Gia Ðịnh, và trở thành dấu ấn lịch sử của lực
lượng vũ trang, Ðảng bộ và nhân dân Gò Vấp xưa. Sau trận đánh này, anh
được tuyên dương danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Lê Văn Thọ tiếp tục tham gia
chỉ huy các đơn vị bộ đội chủ lực. Năm 1955, anh được đề bạt làm Ðại đội
phó Ðại đội 2 - Tiểu đoàn 5 thuộc Quân khu Tả Ngạn.
 |
Lễ hạ cờ của người Mỹ |
Từ tháng 6-1958 đến tháng 5-1967, anh là giáo viên quân sự và trợ lý
tham mưu Quân khu Tả Ngạn. Từ tháng 6-1967 đến tháng 6-1969 là trợ lý
nghiên cứu của D.305.
Trong một trận chiến đấu oanh liệt, kiên cường tại mặt trận phía Nam của
Quân khu 4, anh đã anh dũng hy sinh ngày 17-6-1969. Cuộc đời chiến đấu
của người Anh hùng liệt sĩ Lê Văn Thọ từ trong kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, đã trở thành tấm gương cao đẹp cho thế hệ trẻ Sài Gòn
- Gia Ðịnh noi theo.
Anh hùng Lê Văn Thọ đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng
nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, năm lần được Mặt trận miền Ðông
Nam Bộ khen và là Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Lê Văn Thọ được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày nay, tưởng nhớ đến anh, một con đường ở quận Gò Vấp đã được đặt tên
đường Lê Văn Thọ tại phường 11, và đây là con đường dẫn đến với làng
hoa Gò Vấp nơi anh đã sinh ra và lớn lên.
Phi trường Tân Sơn Nhất và những lần rực lửa
Sân bay Tân Sơn Nhất được người Pháp xây dựng vào năm 1930, ở làng Tân Sơn Nhất, thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định cũ.
Chuyến bay đầu tiên từ Paris đến Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhất là vào
năm 1933, chuyến bay này kéo dài 18 ngày. Năm 1938 Pháp cho thành lập Sở
Hàng không Dân dụng.
Năm 1956 Mỹ cho xây dựng sân bay rộng hơn, dài hơn 3000m, bằng bê tông.
Trong khi đó sân bay do Pháp xây dựng năm xưa dài hơn 1500m, bằng đất
đỏ. Thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), sân bay Tân Sơn
Nhất (Sài Gòn - nay là TP. Hồ Chí Minh) chỉ là một phi cảng nhỏ bé.
Sau năm 1954, nhất là thời điểm từ cuối năm 1965, khi Mỹ ào ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu trực tiếp vào tham chiến trên chiến
trường miền Nam, chúng đã xây dựng Tân Sơn Nhất thành 1 sân bay có tầm
cỡ quốc tế, một căn cứ quân sự chiến lược quan trọng của Mỹ ở khu vực
Đông Nam Á.
Sân bay Tân Sơn Nhất trước ngày giải phóng 30-4-1975 có chiều dài khoảng
8 km, rộng 5 km, chiếm 1.922 héc-ta. Sân bay Tân Sơn Nhất là 1 căn cứ
hỗn hợp có nhiều đường bay cho các loại máy bay dân dụng và quân sự. Sân
bay có khu sân bay quân sự, khu hàng không dân dụng và khu hàng không
quốc tế, có khả năng chứa 400-500 máy bay. Trong sân bay có hệ thống ụ
chìm, ụ nổi, các kho chứa bom đạn, xăng dầu…
Theo thống kê, năm 1958 sân bay có 30.000 phi vụ cất cánh và hạ cánh thì
đến năm 1966 đã tăng đến 50.000 phi vụ. Tại sân bay, có khoảng 20 hãng
hàng không quốc tế tham gia sử dụng như: Pan American, American
Airlines, Seaborn Transwerld, Continental Airlines, Flying Tiger,
Nortwest Airlines, Cathay Pacific, Slich Airlines… và các hãng hàng
không khác.
Trong lịch sử kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc ta, Quân khu
7, Quân khu Sài Gòn - Gia Định thì sân bay Tân Sơn Nhất là nơi ghi dấu
nhiều sự kiện quan trọng. Ngay từ những ngày đầu quân Pháp núp sau quân
Anh gây hấn tái chiếm Nam Bộ (9-1945), sân bay Tân Sơn Nhất, nơi quân
Anh làm nhiệm vụ cảnh giới đã bị du kích Sài Gòn tập kích.
Tiếp theo là hàng loạt các trận đánh của lực lượng đặc công, Biệt động
Sài Gòn vào khu vực sân bay tiêu biểu như: Trận đánh ngày 15-3-1952, tổ
đặc công do anh hùng Lê Văn Thọ chỉ huy đột nhập dùng mìn đánh kho bom
An Hội (Gò Vấp) phá hủy 700 quả bom, diệt 182 tên địch; Trận 31-8-1952,
Đại đội quyết tử 3721 (sau đổi tên là Đại đội đặc công 205) “dùng chất
nổ hủy diệt 5.200 tấn bom đạn, 3 triệu lít xăng, trên 2.000 thùng dầu
nhớt, gây thiệt hại nặng cho đại đội Âu - Phi canh giữ kho”; Đêm 30-5
rạng sáng ngày 1-6-1954, Tổ đặc công Bùi Văn Ba, Phạm Văn Hai gồm 12
người đột nhập kho đạn, xăng dầu Phú Thọ Hòa đặt mìn hẹn giờ “thiêu hủy
9.345 tấn bom đạn, 20 triệu lít xăng cùng 1 đại đội lính Âu - Phi chết
và bị thương”.
Các trận đánh đã có tác dụng cổ vũ toàn chiến trường Nam Bộ lúc bấy
giờ. Cũng tại sân bay Tân Sơn Nhất này còn chứng kiến một sự kiện lịch
sử quan trọng, đó là khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (7-1954).
Sau lễ “Trao trả dinh Nô-Rô-Đôm” (Dinh Độc Lập) cho chính quyền Ngô Đình
Diệm do Mỹ dựng nên, Tướng viễn chính Pháp Ê-ly- Cao ủy kiêm Tổng Chỉ
huy lực lượng viễn chinh Pháp cuối cùng, từ sân bay Tân Sơn Nhất cuốn cờ
về nước, chấm dứt sự có mặt sau gần 100 năm của quân đội xâm lược Pháp ở
Đông Dương.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1945-1975), mặc dù được Mỹ - Ngụy tăng
cường các phương tiện thiết bị điện tử hiện đại bảo vệ nghiêm ngặt,
nhưng từ năm 1963-1966, sân bay liên tục bị lực lượng Biệt động Sài Gòn,
lực lượng pháo binh miền Đông Nam Bộ tấn công, diệt nhiều phi công Mỹ
và nhân viên kỹ thuật, phá hủy hàng triệu lít xăng, hàng chục máy bay
các loại.
Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hình ảnh tiến công
quả cảm của người chiến sĩ Quân giải phóng miền Nam trên đường băng Tân
Sơn Nhất đã được nhà thơ Lê Anh Xuân khắc họa, ca ngợi làm biểu tượng
cao đẹp cho “Dáng đứng Việt Nam”, dáng đứng hiên ngang, tấn công trên
đường băng Tân Sơn Nhất đi vào bất tử như một huyền thoại.
Sân bay Tân Sơn Nhất còn là minh chứng sinh động về đòn đấu tranh chính
trị - ngoại giao mưu trí và dũng cảm của Phái đoàn quân sự Việt Nam Dân
chủ cộng hòa và Phái đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp quân sự 4 bên tại trại Đa-vít đòi
Mỹ-ngụy phải thi hành Hiệp định Pa-ri, diễn ra liên tục 823 ngày đêm, từ
tháng 2-1973 đến cuối tháng 4-1975. Thêm một lần nữa, lịch sử được lập
lại:
Ngày 29-3-1973, Tướng 4 sao Weyand (Uâyen) Tổng chỉ huy Bộ Tổng Tham mưu
quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã làm lễ hạ cờ tại sân bay Tân
Sơn Nhất cùng với 2510 người lính Mỹ cuối cùng lặng lẽ rời khỏi Việt
Nam.
Họ là những người lính Mỹ cuối cùng lên máy bay rời sân bay Tân Sơn
Nhất, đánh dấu mốc lịch sử sau 115 năm, kể từ năm 1858 khi quân Pháp nổ
súng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta, lần đầu tiên trên toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam, quân đội của bọn đế quốc xâm lược đã bị quét sạch.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trước thế tiến công như vũ bão của quân và
dân ta, ngày 21-4-1975 Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức
và đêm 25-4-1975, từ sân bay Tân Sơn Nhất, Thiệu lặng lẽ trốn di tản
sang Đài Loan. Sau những trận bão lửa rực trời của pháo binh quân giải
phóng từ phía Nhơn Trạch nã vào sân bay như rồng lửa Thăng Long phun cấp
tập.
Vào lúc 16h30 ngày 28-4-1975, Phi đội Quyết Thắng xuất kích do phi công
Nguyễn Thành Trung bay số 1, Từ Đễ bay số 2, Nguyễn Văn Lục bay số 3,
Hoàng Mai Vượng và Nguyễn Văn On bay số 4, Hán Văn Quảng bay số 5 bất
ngờ cất cánh từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang-Ninh Thuận) sử dụng máy bay
A-37 của địch dội bom xuống khu vực phía Tây sân bay, phá hủy nhiều máy
bay, khí tài quân sự địch…góp phần quan trọng vào chiến thắng trọn vẹn
của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất tổ quốc vào trưa ngày 30-4-1975 lịch sử.
Sau ngày giải phóng, sân bay Tân Sơn Nhất - Sài Gòn - Gia Định được đón
Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà
nước từ Thủ đô Hà Nội vào dự lễ mừng chiến thắng, mừng non sông thu về
một mối, Nam Bắc một nhà thống nhất như mong muốn và ước nguyện của Bác
và đồng bào chiến sĩ cả nước.
Làng hoa Gò Vấp nổi tiếng ngày xưa này trở thành vùng đô thị hóa ven đô,
những nghệ nhân làng hoa và những người yêu nghề truyền thống đang cố
níu kéo, lưu giữ lại chút hồn của làng hoa nổi tiếng ngày xưa.
Chiến khu An Phú Đông giờ đang lập văn bia, di tích, bảo tàng như nhắc
nhở các thế hệ đời sao về những chiến công lịch sử oai hùng của quân dân
Sài Gòn –Gia Định những ngày đầu chống giặc Pháp xâm lược và đế quốc
Mỹ.
Sân bay Tân Sơn Nhất ngày nay trở thành một cảng hàng không tầm cỡ trong
khu vực và thế giới tấp nập trên phi đạo các hãng máy bay quốc tế và
nội địa thi nhau cất hạ cánh.
Những địa danh trên luôn mang trong hồn về một người anh hùng đầu tiên
của đất miền Đông Nam Bộ, miền Đông “gian lao mà anh dũng”.
Người anh hùng nổi tiếng trong các trận đánh cầu Cát Phân, Rạch Cát, Lái
Thiêu, kho bom An Hội… trong thời kỳ đầu tiên đánh Pháp với vũ khí thô
sơ và lòng quả cảm. Mãi mãi tên tuổi anh hùng Lê Văn Thọ là niềm tự hào
của người dân làng hoa Gò Vấp và quân dân Sài Gòn - Gia Định.
(Theo phunutoday.vn)