 |
Quang cảnh Lễ Tuyên ngôn độc lập. Ảnh: Tư liệu |
Trở lại những ngày tháng 8 cách đây 67
năm, khi đó không khí sôi sục khởi nghĩa bắt đầu từ sự kiện Việt Minh
biến cuộc biểu tình của Tổng hội viên chức ủng hộ Chính phủ Trần Trọng
Kim ngày 17-8 thành cuộc biểu dương lực lượng cách mạng của quần chúng.
Ngày 19-8, một cuộc mít tinh lớn do Việt Minh tổ chức tại Quảng trường
Nhà hát Lớn đã kết thúc bằng cuộc tuần hành thị uy của quần chúng phối
hợp với lực lượng vũ trang chiếm đóng các sở, cơ quan đầu não của chính
quyền bù nhìn theo lời kêu gọi của Ủy ban Quân sự cách mạng và ngày
20-8, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ và Hà Nội chính thức thành lập.
Trước không khí cách mạng trên cả nước, dù đang bị ốm khá nặng nhưng Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn quyết định rời Tân Trào về Hà Nội vào sáng ngày
22-8. Sáng ngày 26-8, Người chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương
Đảng tại số nhà 48 phố Hàng Ngang để chuẩn bị ra Tuyên ngôn độc lập.
Ngày 27-8, tại cuộc họp của Ủy ban Dân tộc Giải phóng, các thành viên đã
bầu Người làm Chủ tịch lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
ấn định ngày 2-9 sẽ làm lễ tuyên bố nước Việt Nam là quốc gia độc lập,
ra mắt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lâm thời. Thời gian quá gấp
rút nên công tác chuẩn bị cho ngày lễ được giao cho những cán bộ có năng
lực. Việc tổ chức ngày trọng lễ được giao cho ông Nguyễn Hữu Đang,
thiết kế lễ đài do kiến trúc sư trẻ Ngô Huy Quỳnh, còn việc chụp ảnh và
quay phim được nhà nhiếp ảnh trẻ Võ Văn Lai sốt sắng đảm nhiệm. Nhiếp
ảnh thì không lo lắm nhưng quay phim thời điểm đó ở Hà Nội chỉ có nhà
nhiếp ảnh Hương Ký và hãng Đông Dương phim. Nhưng Đông Dương phim chỉ
còn trên danh nghĩa, thực tế đã không còn hoạt động, cũng không còn máy
móc thiết bị nên Võ Văn Lai đã mời Hương Ký và ông này đã nhận lời, hứa
cử hai người, một quay phim và một nhiếp ảnh. Vậy ông Hương Ký là ai và
tại sao chỉ mình ông này lại biết quay phim và có thiết bị quay phim?
Đầu thế kỷ XX, tại khách sạn Métropole người ta đã chiếu phim tại Grand
café bộ phim câm có tiêu đề là "Thần cọp", có thể khẳng định đây là bộ
phim đầu tiên chiếu tại Hà Nội. Tuy nhiên, phải gần 20 năm sau Hà Nội
mới có hãng phim đầu tiên. Ngày 11-9-1923, người Pháp công bố thành lập
Hãng phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma - IFEC).
Ra đời được hơn một tháng, IFEC đã sản xuất bộ phim đầu tiên là "Kim Vân
Kiều". "Kim Vân Kiều" do dàn đào kép của ban tuồng Quảng Lạc thực hiện,
Bẩy Tắc đóng vai Hoạn Thư, Tư Lê đóng vai ông Phủ. Sân chùa Láng là bối
cảnh dinh Từ Hải, cổng làng Thọ làm cửa vào nhà Tú Bà, bãi tha ma làng
Yên Thái là chỗ Kiều viếng mộ Đạm Tiên… Đây là bộ phim câm, độ dài 1.500
mét, quay xong được đưa về Pháp làm hậu kỳ và ra mắt lần đầu tại rạp
Palace (nay là rạp Công Nhân, phố Tràng Tiền).
Cùng với IFEC, có một người Hà Nội cũng bỏ tiền ra làm phim, đó là ông
Nguyễn Lan Hương (còn gọi là Hương Ký). Cũng như nhiều thanh niên Việt
Nam khi ấy, Hương Ký bị bắt đi làm lính thợ, tham gia chiến tranh thế
giới lần thứ nhất. Giải ngũ năm 1919, Hương Ký ở lại Pháp học nghề ảnh,
sau đó về nước mở hiệu ảnh ở số nhà 86 phố Hàng Trống. Năm 1924, chủ
tiệm ảnh Hương Ký đã nhờ một người Pháp hiểu biết về điện ảnh dạy cách
làm phim rồi tự thực hiện bộ phim hài đầu tiên có tên là "Đồng tiền kẽm
tậu được ngựa". Phim dài sáu phút, phỏng theo truyện "Cô gái và bình
sữa" (La laitière et le pot au lait) trong truyện ngụ ngôn của La
Fontaine. Phim thứ hai của Hương Ký cũng là phim hài với tựa "Cả Lố",
đang quay thì phải dừng lại vì bất đồng giữa nhà sản xuất với diễn viên.
Sau đó, Hương Ký còn quay phim tài liệu "Ninh Lăng" dài 2.000 mét về
đám tang vua Khải Định. Tiếp đó là phim "Tấn tôn đức Bảo Đại" dài 800m
về lễ đăng quang của Bảo Đại, với chi phí 30.000 đồng (tiền Đông Dương),
chiếu tại rạp Palace 27 ngày nhưng chỉ thu được 5.000 đồng, khiến Hương
Ký lỗ nặng. Tiếng tăm về phim của người An Nam làm lan sang các tỉnh
phía Nam Trung Quốc và tỉnh trưởng Vân Nam đặt hàng Hương Ký làm hai
phim tài liệu quay tại Trung Quốc. Nhưng sau khi làm xong bộ phim thứ
nhất "Đám tang tướng Đường Kế Nghiêu" (làm năm 1929), không thấy Hương
Ký làm phim nữa mà trở về với nghề nhiếp ảnh. Có người cho rằng IFEC đã
tác động đến tỉnh trưởng Quảng Tây để dừng dự án vì họ không muốn một
hãng phim Việt Nam thành công trong khi họ liên tục thất bại. Sau này
tuy không bỏ tiền làm phim nữa nhưng Hương Ký vẫn đam mê phim, mua máy
quay, thiết bị in tráng để quay chơi, đồng thời Tây hay ta nếu có nhu
cầu quay làm tư liệu thì nhận làm dịch vụ. Như vậy, Hương Ký là nhà quay
phim duy nhất ở các tỉnh phía Bắc trong nửa đầu thế kỷ XX.
Trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập, hai nhân viên chụp ảnh và quay phim của nhà
Hương Ký được ông Nguyễn Hữu Đang cấp giấy phép đi lại để tác nghiệp ở
những khu vực cho phép. Nhưng một tuần sau ngày 2-9, Hương Ký thông báo
không quay được vì máy quay trục trặc. Rồi câu chuyện cũng bị chìm đi vì
nước Việt Nam non trẻ lúc đó có quá nhiều việc phải làm, và sau đó thực
dân Pháp tái chiếm Hà Nội... Cho đến khi đạo diễn Phạm Kỳ Nam mang
những thước phim quý giá về nước thì ông Nguyễn Hữu Đang vì lý do đặc
biệt nên cũng không biết. Mãi đến năm 1990, trong bài viết "Những điều
còn bí ẩn quanh việc quay bộ phim Ngày độc lập 2-9-1945", ông Nguyễn Hữu
Đang vẫn không tin những thước phim đó do Hương Ký quay vì ông biết sau
lễ độc lập ít ngày, quân Tầu Tưởng đưa Vũ Hồng Khanh về nước với âm mưu
cướp chính quyền thì Hương Ký đã theo Quốc dân đảng chống lại Việt
Minh. Song ông đưa ra một giả thiết khác: có thể những thước phim ấy do
chính nhân viên phái bộ Mỹ dưới danh nghĩa đại diện quân đồng minh đã
quay. Ông lý giải, với danh nghĩa là đại diện quân đồng minh, họ được
quyền đi lại thoải mái trên quảng trường để quay phim, chụp ảnh mà không
bị ai cản trở. Tuy nhiên ông Nguyễn Hữu Đang vẫn nghi ngờ vì nếu phái
đoàn Mỹ quay thì tại sao họ không tặng lại cho Chính phủ lâm thời mà lại
im lặng bao nhiêu năm để rồi nhờ một người mang đến cho đạo diễn Phạm
Kỳ Nam với mục đích gì?
67 năm đã trôi qua và cho đến hôm nay, ai đã quay những thước phim về
ngày Lễ Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 vẫn còn là điều bí mật.