Như vậy là trong tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Hồ Chí Minh đã đặt dân tộc mình trong vị thế của “một dân tộc đã gan
góc đứng về phe Đồng minh”. Đây là sự lựa chọn một thế ứng xử mang ý
nghĩa lịch sử. Phải với một tầm vóc văn hóa mang tính thời đại mới có
được sự lựa chọn đúng đắn ấy. Giờ đây, khi chúng ta nói đến quyết tâm
đẩy tới sự nghiệp phát triển đất nước để hội nhập quốc tế thì cần phải
thấy rằng, sự hội nhập ấy đã khởi đầu với Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 ở
một tầm vóc văn hóa mang tính thời đại ấy!
Ở đây nổi rõ lên một nhận thức: Điều kiện tiên quyết của hội nhập không
chỉ là cách lựa chọn một thế ứng xử ngoại giao mang tính thời đoạn, mà
là xác lập cái nền tảng nhân văn bền vững của tư tưởng hội nhập. Nền
tảng nhân văn ấy thể hiện tập trung trong đoạn mở đầu của “Tuyên ngôn
Độc lập 2-9” với hai câu trích dẫn bất hủ về “quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, về “Nhân quyền và dân quyền”.
Câu trên được trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, câu dưới được lấy ra từ
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789: “Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”. Kết thúc cho những trích dẫn là sự khẳng
định thật dứt khoát và quyết liệt của tác giả “Tuyên ngôn Độc lập 2-9”:
“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”!
Phải khẳng định dứt khoát vì rằng, “lẽ phải” thì có thể ai cũng dễ nhận
biết, nhưng không thiếu người “chối cãi” việc thực hiện khi cái “lẽ
phải” ấy động chạm đến lợi ích của chính họ. Một cá nhân, một nhóm
người, một cộng đồng cho đến một quốc gia, một liên minh nhiều quốc
gia... có những lợi ích đôi lúc đối nghịch với lợi ích của người khác,
nhóm khác, quốc gia khác. Chẳng hạn như, lợi ích dân tộc hẹp hòi có thể
dẫn đến tội ác xâm lược, diệt chủng theo kiểu Đức Quốc xã Hítle, gần hơn
là tập đoàn diệt chủng Polpốt và hiện nay là một số nước đang gây bất
ổn định của khu vực và thế giới, là những ví dụ rất cụ thể. Lợi ích nhóm
được đẩy tới một cách liều lĩnh sẽ triệt tiêu những “lẽ phải”, đưa tới
sự lũng đoạn nền kinh tế, tạo ra những bất ổn xã hội là một ví dụ khác.
Vì thế, khẳng định “lẽ phải” ấy thể hiện bản lĩnh của người hiểu rõ thời
thế và nắm bắt thời cơ với nhận thức rõ rằng đánh mất thời cơ là sự
đánh mất oan uổng và tệ hại nhất cho một dân tộc. Hoàn toàn không là
ngẫu nhiên, sau những cơn sốt rét tai ác tại một lán nhỏ trong rừng gần
đình Tân Trào ở Thái Nguyên, chỉ mấy ngày sau Hồ Chí Minh khởi thảo
Tuyên ngôn Độc lập tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang ở Hà Nội với những câu mở
đầu bằng những lời bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp 1789.
Bằng những trải nghiệm của một người đi tìm đường cứu nước, từng bôn ba
khắp năm châu bốn biển, trước khi hôn lên nắm đất quê hương ngày trở về
Hồ Chí Minh đã từng nhiều năm sống trên đất Liên Xô, Trung Quốc, vì sao
lại mở đầu tác phẩm (như lời Bác nói lại sau này, đó là những giờ phút
sảng khoái nhất của Người), Hồ Chí Minh lại mở đầu như vậy? Chỉ có thể
giải thích rằng, những lời trích dẫn ấy chính là những dòng ánh sáng kết
tinh trí tuệ của cả loài người chứ không chỉ của riêng một quốc gia,
dân tộc nào.
Phải chăng đó chính là ánh sáng tỉnh thức mà đại văn hào Pháp Victor
Hugo từng “kiên trì kêu gọi: Ánh sáng, Ánh sáng”? Đó là ánh sáng soi rọi
sự nghiệp giải phóng con người, khi mà “con người sinh ra đã là tự do,
vậy mà ở khắp mọi nơi, con người lại bị cùm kẹp” như Jean-Jacques
Rousseau, một trong những ngọn cờ tư tưởng của thế kỷ Ánh sáng Pháp đã
phẫn nộ lên án. Trước đó, Voltaire, một ngọn cờ tư tưởng ánh sáng khác,
đã khuyến cáo: “Lịch sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các ông
vua mà là trào lưu tiến hóa của dân tộc, không nên đề cập đến từng quốc
gia riêng rẽ mà là toàn thể nhân loại, không nên đề cập đến chiến tranh
mà là đề cập đến sự phát triển của tư tưởng... Điều tôi muốn biết là qua
những giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man rợ đến trạng thái
văn minh”. Rõ ràng là, cái quyết định cho sự tồn vong hay hưng thịnh của
một xã hội, một đất nước không chỉ là của cải vật chất cho dù yếu tố
này hết sức cần thiết, mà trước hết là “sự phát triển của tư tưởng” trên
một nền tảng nhân văn vững chắc. Đó là “ánh sáng tỉnh thức”, ý tưởng
của V.Hugo: “Hãy làm cho tư tưởng dậy lên như gió lốc”. Nói rõ hơn, đó
là tư tưởng về khát vọng dân chủ và tự do.
Với Hồ Chí Minh, “trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất
tự do”, tự do cho con người, tự do cho nhân dân, muốn thế, trước hết
phải giành độc lập. Bởi vậy, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Thế
nhưng, ngay những ngày chính quyền nhân dân còn trong trứng nước, Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Vậy là, “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, là
“nhân quyền” và “dân quyền”, và đó là khát vọng mãnh liệt nhất của con
người, là mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta ngay từ buổi khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ý nghĩa thời đại của “Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945” khởi đầu từ buổi ấy.