Đọc sách: Một Nam bộ đặc sắc
Nói
đến dòng văn học này, trước khi nhắc đến những tên nổi trội sau này như
Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lý Văn Sâm, Trần Kim Trắc…, hay cả Nguyễn
Ngọc Tư gần đây, chúng ta phải nhìn về xa hơn nữa.
Truyền
thống này có nguồn gốc từ văn học dân gian, nơi giao thoa sâu đậm của
văn hóa Việt, Kh’mer, Hoa và nhiều luồng văn hóa khác, để qua đó làm nên
những tên tuổi đặt nền móng như Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn
Thọ Tường, Phan Văn Trị, Trần Hữu Thường, Sương Nguyệt Anh, Sơn Vương,
Hồ Biểu Chánh… Từ “cội rễ này, đến hôm nay, trong cộng đồng văn Việt,
chắc chỉ còn Kiệt Tấn, Hồ Trường An và Nguyễn Ngọc Tư là vẫn trung thành
đến đặc sắc trong giọng điệu Nam bộ của mình, phần lớn các tác giả
khác, dù xuất thân hay sinh sống ở Nam bộ, đã bỏ qua vùng miền để dùng
“văn phong quốc gia”.
Kiệt Tấn (1940, Bạc Liêu) là tác giả thành danh trước 1975, gần đây, vài tác phẩm của ông được tái bản như Em điên xõa tóc, Người em xóm học… nhưng
với một ưu tư và phong cách khác. Theo một vài nhận định, văn nghiệp
của Kiệt Tấn có ba nét nổi bật, mà trong đó dòng văn chương tính dục và
văn chương miệt vườn quan trọng hơn.
Đọc Lớp lớp phù sa,
với bối cảnh trải dài qua các vùng đất như Thới Lai, Cờ Đỏ, Bình Thủy…
trong ba thập niên từ những năm đầu 1920 đến 1954, chúng ta không khỏi
ngạc nhiên về nếp nghĩ và ngôn ngữ đặc thù của nó. Nhiều câu chữ mà
người Nam bộ ngày nay cũng thấy xa lạ, muốn hiểu sâu hơn thì phải tra từ
điển.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lục nhận xét: “Nhà văn miệt vườn để chỉ thị
một lối văn đặc sản miền Nam, lối ngôn ngữ nói trở thành ngôn ngữ viết
trong cách sử dụng từ, lối đối thoại. Cạnh đó là đào sâu những câu
chuyện thuộc lịch sử miền đất khai hoang với sắc thái văn hóa, phong
tục, tập tục, địa lý, lối suy nghĩ, lối làm ăn”.
Ngoài sức hút về văn phong để có thể đọc một mạch hơn 480 trang sách, Lớp lớp phù sa
đã trở thành vốn quý về ngữ âm, những nghiên cứu sau này chắc chắn phải
dựa vào đây một phần để biết về lời ăn tiếng nói của Nam bộ nửa đầu thế
kỷ 20. Làm được điều này, vì trong tâm cảm của Kiệt Tấn còn “bảo tồn”
được khá nhiều vốn cổ qua ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, vọng cổ…
Cũng
giống như các tiền bối của mình là Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…, Kiệt Tấn
đã kết hợp được nền tảng dân gian Nam bộ với tư duy văn chương hiện đại
của phương Tây, của thành thị Sài Gòn, để làm nên một giọng điệu đa
diện, điều mà Nguyễn Ngọc Tư sau này cũng làm khá thành công.
Chính
vì vậy, Kiệt Tấn khác với Trang Thế Hy, Trần Thị NgH…, những nhà văn
Nam bộ thành công, với lối viết hoàn toàn thuộc kỹ thuật hiện đại Tây
phương, ít còn dấu vết miệt vườn. Nhìn ở góc độ này, Lớp lớp phù sa đúng
là một đại diện đặc sắc của văn học Nam bộ hôm nay.
(Theo thethaovanhoa.vn)