Sai lệch lớn của Giáo dục Đại học
Nhiệm vụ của hệ Giáo dục Đại học
(GDĐH) là đào tạo nguồn nhân lực trí tuệ cho đất nước. Cái sai lệch lớn
trong nhiệm vụ đào tạo này là chú trọng nhiều đến phát triển quy mô hơn
là nâng cao chất lượng và hiệu quả. Theo quan điểm của Lê-nin: “Tại
những nước chưa phát triển, quy mô đào tạo nguồn nhân lực luôn tỷ lệ
nghịch với chất lượng” và “Nguồn nhân lực chất lượng kém sẽ gây hậu quả
khôn lường và lâu dài cho đất nước”. Vậy với một nước còn nghèo như ta,
khi phát triển quy mô được đưa lên quá mức cần thiết hay hàng đầu như
hiện nay, đương nhiên nó sẽ đẩy chất lượng xuống thấp.
Bộ GD&ĐT đề ra chỉ tiêu đào tạo
đại học phải phấn đấu đạt 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020 để bằng
với các nước phát triển. Vậy là chỉ ít năm sau, đang trong hoàn cảnh
thiếu thầy, cơ sở vật chất gần như bằng không mà số trường ĐH, CĐ đã từ
100 được tăng lên tới hơn 400 cùng với đủ mọi hình thức đào tạo phi
chính quy, ngoài trường. Mỗi trường được giao tuyển hàng ngàn sinh viên.
Chỉ với tổng 8 điểm thi 3 môn cũng được “vét” vào học đại học.
 |
Nhiều chuyên gia đánh giá rằng, chương
trình kiến thức phổ thông đang quá nặng, nhiều kiến thức không phù hợp
với thực tiễn cuộc sống - Ảnh minh họa, nguồn Internet. |
Ô hay! Nền sản xuất, dịch vụ của nước
ngoài làm ra 30.000 - 40.000 USD/đầu người mỗi năm thì nhu cầu cán bộ
Đại học như thế là đúng. Còn GDP của ta khi ấy mới chỉ đạt 2.000 USD/đầu
người. Vậy thì hàng triệu kỹ sư, cử nhân ra trường mỗi năm sẽ làm gì
đây trong hệ thống sản xuất, dịch vụ nhỏ nhoi tương ứng ấy?
Ngay cả đến nền sản xuất nông lâm nghiệp của ta hiện cũng đang thừa
nhiều kỹ sư. Sinh viên tốt nghiệp các ngành học chuyên sâu càng khó xin
việc, không ít kỹ sư, cử nhân do không xin được việc làm đành chạy xe
ôm, chạy chợ, bán vé số... Nguồn nhân lực đào tạo với quy mô lớn mà
không được sử dụng hoặc sử dụng không được, đều là những lãng phí cực kỳ
lớn về tiền bạc, công sức của đất nước, thậm chí dễ gây bất ổn xã hội
khó lường.
Thực ra, từ nhiều năm trước, họ đã bị
bỏ mặc do chủ trương “mở rộng đầu vào, thả nổi đầu ra”, tức là chỉ biết
tuyển thật nhiều vào trường mà không cần nghĩ tới việc sử dụng họ khi
ra trường, không cần biết hiệu quả tiền bạc, công sức của xã hội và gia
đình đầu tư cho họ tốn kém, nhọc nhằn ra sao. Nếu có sự điều tra nắm
tình hình sinh viên ra trường có việc làm đúng nghề đào tạo một cách
khách quan, chắc chắn ngành giáo dục phải giật mình về hiệu quả đào tạo.
Mở nhiều trường Đại học như vậy, tuyển sinh lại dễ dãi thì còn mấy ai
muốn vào học các trường trung cấp và dạy nghề nữa, từ đó đã gây nên mất
cân đối trong nguồn nhân lực của đất nước, đẻ ra tình trạng "thừa thầy
thiếu thợ". Những ngành học ưa thích chỉ tiếp nhận thí sinh thi đạt điểm
cao mặc dù không nhất thiết phải thế. Ngược lại, một số trường với
những ngành học đáp ứng đúng những nhu cầu đang là bức xúc của đất nước
thì rất khó tuyển sinh, điểm tuyển đầu vào rất thấp.
Chất lượng đào tạo đại học một số năm gần đây của Việt Nam đã được xếp
vào những nước kém nhất thế giới. Không rõ rồi đây chất lượng hàng triệu
sinh viên ra trường vào những năm tới sẽ còn thấp đến mức nào nữa khi
mà nhiều vạn giảng viên, giáo sư, tiến sĩ cũng sẽ được đào tạo gấp rút
và phong hàm, phong vị vội vã cho đủ chỉ tiêu.
Cũng do coi nhẹ chất lượng, đuổi theo quy mô, gần đây quy chế tuyển sinh
ĐH còn thêm điều 33 để "vét" những thí sinh dưới điểm sàn đưa vào đào
tạo đại học với ý “từ thiện” cho vùng sâu, vùng xa. Thực ra chỉ là cách
để giúp cho các trường yếu kém tuyển đủ chỉ tiêu được giao.
Hướng đi nào cho Giáo dục Đại học?
Để sớm khắc phục được những bất cập trên về đào tạo nguồn nhân lực, thiết nghĩ ít nhất Nhà nước nên có những đổi mới như sau:
1 - Chuyển đổi trình tự ưu tiên (nếu
đúng có như vậy) từ "Quy mô - Chất lượng - Hiệu quả" thành "Hiệu quả -
Chất lượng - Quy mô". Trong đó, nên hiểu rằng nếu đào tạo mà không có
hiệu quả thì dù có chất lượng cũng chẳng để làm gì chứ nói tới quy mô.
2 - Xem lại chỉ tiêu phấn đấu đạt 450
sinh viên/1 vạn dân. Đó là con số phù hợp với các nước phát triển, nhưng
với hoàn cảnh của đất nước ta hiejn nay thì lại không phù hợp, việc
tăng quy mô và số lượng trường đào tạo đại học một cách vô tội vạ, gây
nên nhiều bất cập, bức xúc trong xã hội.
3 - Chỉ tiêu tuyển sinh, ngành nghề
học của mỗi trường cũng như kinh phí đào tạo do Nhà nước cấp đều phải
tính toán lại và phân bổ hợp lý theo tinh thần giảm mạnh chỉ tiêu đào
tạo và số trường ĐH, CĐ xuống còn vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước trên cơ sở có sự điều tra, nắm bắt và tiên lượng nghiêm túc. Không
để thiếu và cũng không được thừa nhiều mới là đúng hướng. Nếu quy mô
giảm khoảng 1/3 thì chất lượng sẽ nâng lên được 2, 3 lần. Nếu quy mô
giảm còn vừa đủ dùng thì chất lượng còn cao hơn nữa và hiệu quả đào tạo
sẽ đạt 100%, chính trị - xã hội ổn định và phát triển vững chắc.
4 - Trên cơ sở đó, quy hoạch lại mạng
lưới trường của cả nước. Đối với những trường ĐH, CĐ mới được mở vội vã
và những trường còn thiếu điều kiện đào tạo, nên được đầu tư xây dựng
thành các trường dạy nghề. Trong đó ưu tiên đào tạo các nghề cho nông
dân nhằm giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, các nghề nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp, các nghề phục vụ xây
dựng nông thôn mới hoặc lấy chỗ lập trường tiểu học, bệnh viện… vẫn còn
là có ích hơn. Ngay tại Thủ đô Hà Nội cũng đang thiếu cả chỗ cho các
cháu bé học, có bệnh viện hơn chục bệnh nhân chung nhau 1 giường.
Nhờ đó Nhà nước mới đủ lực, tập trung
nâng cao được suất đầu tư và chất lượng đào tạo đại học tại các trường
còn lại ngang tầm dần với các nước khác trong vùng, cải thiện chất lượng
và kết cấu nguồn nhân lực của đất nước. Trong thời gian tới, một số
trường, một số ngành học có thể phải tự đóng cửa do không đủ điều kiện
đào tạo hoặc không có nhu cầu sử dụng, đó là điều tất yếu và cũng là sự
trả giá cho những sai lầm hệ thống, cần được Nhà nước quan tâm.
Nội dung và phương pháp dạy của giáo dục phổ thông chưa phù hợp
Hệ Giáo dục Phổ thông (GDPT) chủ yếu
làm nhiệm vụ nâng cao dân trí. Quy mô tuyển sinh có thể tăng mạnh để đáp
ứng nhu cầu học tập của dân. Bất cập lớn trong hệ GDPT hiện nay chính
là nội dung và phương pháp dạy và hoc chưa phù hợp. Tại cấp học nào cũng
rất nhiều môn học, mỗi môn đều dày đặc kiến thức, vừa rộng vừa sâu
nhưng lại chưa phải là thật cần thiết cho việc rèn khả năng tự học, tự
đào tạo cho học sinh.
Sách vở nhiều, nội dung lớn, thời
lượng ít, thầy trò phải dạy và học qua quýt cho xong. Những gian lận
trong thi cử của cá nhân hay có tổ chức, những vấn nạn dạy thêm, học
thêm... cũng đẻ ra từ đó. Học sinh khi ở lớp thường được điểm 9,10 về
môn GD công dân, môn đạo đức, khi ra khỏi lớp không ít cháu nói tục,
chửi bậy, đánh nhau, về nhà không biết chào ông bà, cha mẹ, không biết
nói lời xin lỗi, cám ơn, chứ đừng nói tới chuyện phải biết yêu quê
hương, yêu đất nước.
Yêu cầu “Học đi đôi với hành”, “Tiên học lễ hậu học văn” cũng mới chỉ là
những khẩu hiệu đẹp được treo lên tường. Nếu cứ với nội dung, cách dạy,
cách học như hiện nay, Việt Nam rồi sẽ được thay thế bằng một thế hệ
mới với những con người mà phần lớn là thiếu văn hóa, thiếu trung thực,
đất nước sẽ hiếm nhân tài, nhiều tội phạm.
Nền giáo dục trước kia đã để lại cho
đất nước và chế độ ta nhiều nhân tài xuất chúng, lỗi lạc, nhiều nhà khoa
học lớn, đức độ, vì dân vì nước. Cũng cần học tập nhiều nước khác, ở đó
học sinh vừa học vừa chơi, không phải gò lưng học thêm mà nguồn nhân
lực của họ vẫn đáp ứng tốt cho yêu cầu CNH, HĐH, làm giàu đất nước, rất
nhiều công trình khoa học đạt giải Nobel.
Với tinh thần thực sự cầu thị sẵn có
của Đảng, cơ quan hữu trách các cấp, các trường và các thầy cô giáo,
chắc chắn những sai lầm khuyết điểm sẽ được khắc phục, nền Giáo dục nước
ta sớm vươn lên bằng người.