Đạo
đức người làm kinh doanh là một trong những nội dung quan trọng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, mang giá trị lý luận thực tiễn sâu sắc, góp phần
to lớn vào việc xây dựng và hình thành đội ngũ những người công thương
Việt Nam trong thời kỳ đầu thành lập và xây dựng đất nước.
Giới
doanh nghiệp, doanh nhân trở thành lực lượng xung kích trên mặt trận
kinh tế của xã hội, của đất nước. Đội ngũ doanh nhân đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh mời và tiếp đón tại Phủ Chủ tịch. Điều đó cho thấy, ngay từ
ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và đánh giá cao vai
trò quan trọng của giới doanh nhân.
 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà công thương tại Phủ Chủ tịch ngày 18/9/1945. Ảnh tư liệu |
Chưa
đầy 1 tháng sau ngày tuyên bố độc lập, trong bức thư viết ngày
13/10/1945 gửi tới “Công Thương cứu quốc đoàn” - đó là tổ chức đầu tiên
của giới công thương Việt Nam, cũng là Văn kiện đầu tiên của Đảng và
Nhà nước ta đối với doanh nghiệp, doanh nhân - Người viết: “Được tin
giới công thương đã đoàn kết lại thành “Công Thương cứu quốc đoàn” và
gia nhập vào Mặt trận Việt Minh, tôi rất vui mừng. Hiện nay “Công Thương
cứu quốc đoàn” đương hoạt động để làm nhiều việc ích quốc lợi dân, tôi
rất hoan nghênh và mong đợi nhiều kết quả tốt”.
Người đã khẳng
định: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành
lấy nền độc lập hoàn toàn của nước nhà, thì giới công thương phải hoạt
động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”
cho đất nước.
Người cũng nhấn mạnh: “Việc nước việc nhà bao giờ
cũng đi đôi với nhau, nền kinh tế quốc dân thịnh vượng, nghĩa là việc
kinh doanh của các nhà công thương nghiệp thịnh vượng”. Và Người hứa:
“Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới công thương trong công
cuộc kiến thiết”.
Tại Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng đã thừa nhận
các doanh nghiệp tư nhân là bộ phận hợp thành của nền kinh tế nhiều
thành phần, bình đẳng trước pháp luật với mọi doanh nghiệp khác.
Khẳng
định vai trò và trách nhiệm của giới doanh nhân, năm 2004, Đảng và Nhà
nước chính thức chọn ngày 13/10 làm “Ngày doanh nhân Việt Nam”.
Tính
đến năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có khoảng 100 bài nói, bài viết,
điện, thư cho các doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam. Có thể thấy rõ
rằng tư tưởng chủ đạo của Người về phát triển doanh nghiệp doanh nhân
chính là xây dựng con người, phát triển con người, nói như cách nói hiện
nay đó chính là nguồn lực, nhân lực làm ra của cải cho đất nước. Người
coi doanh nhân sẽ là nguồn lực quan trọng trong việc xây dựng và kiến
thiết đất nước trong mọi thời đại.
Trong bức thư nói trên, Người
đã nhìn nhận rất xa, coi giới doanh nhân là một lực lượng quan trọng
trong xã hội, có mối quan hệ hữu cơ giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi
nhà nước, sẽ là thành phần cơ bản quyết định vận mệnh của đất nước. Đất
nước có giàu mạnh, có hùng cường hay không là nhờ vào những người làm ra
của cải cho đất nước, đó là những người công thương xưa - đội ngũ doanh
nghiệp, doanh nhân ngày nay.
 |
Đại diện các doanh nghiệp được vinh danh "Doanh nghiệp Sài Gòn tiêu biểu 2011" |
Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ đã dành nhiều sự
quan tâm đến vấn đề đạo đức của các ngành nghề khách nhau, trong đó có
vai trò hoạt động của đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Người
căn dặn các doanh nhân phải đoàn kết: đoàn kết nội bộ, đoàn kết trên
dưới, đoàn kết giữa cán bộ, công nhân và đồng bào địa phương; phải chăm
lo đào tạo nguồn nhân lực, phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp, nâng cao
đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên, đặc biệt, phải
chăm lo đến cán bộ và công nhân nữ... Những nội dung cơ bản trên về tư
tưởng của Người có thể được khái quát qua một số điểm như sau:
Một là, tư tưởng về văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân là cái “gốc” của đạo đức người kinh doanh.
Văn
hóa doanh nghiệp, doanh nhân là hạt nhân cơ bản, bởi đó là “gốc” của
doanh nghiệp. Người nói: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ
có thấm nhuần đạo đức hay không”.
Theo Người, doanh nhân cần phải
có đủ các đức tính cần - kiệm - liêm - chính - chí công vô tư, có tri
thức chuyên môn vững vàng, nắm vững pháp luật, sâu sát thực tế, lý trí
vững chắc, bản lĩnh kiên cường, tình cảm trong sáng, kết hợp giữa chính
trị và khoa học, chấp hành pháp luật, hiểu biết pháp luật, đặc biệt quan
tâm tới việc chống tham ô, lãng phí, quan liêu cửa quyền…
Hai là,
tư tưởng tăng gia sản xuất kinh tế và thực hành tiết kiệm. Ngay trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã quyết định phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất: “Tăng
gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu
hiệu của ta ngày nay”. Người cũng yêu cầu: “Huy động tiền nhàn rỗi trong
nhân dân nhằm đưa vào sản xuất thì đồng tiền ấy mới sinh sôi, nảy nở và
ngày càng thêm nhiều”.
Theo Người, bên cạnh việc tiết kiệm tích
lũy vốn phục vụ sản xuất, thì việc huy động vốn trong dân cũng là một
biện pháp hữu hiệu trong các đòn bẩy kinh tế. Người coi iệc huy động
tiền nhàn rỗi trong nhân dân nhằm đưa vào sản xuất là biện pháp hàng
đầu, đòn bẩy mang tính phổ quát để phát triển kinh tế đất nước.
Ba là,
coi trọng lợi ích của người lao động và thực hiện công bằng xã hội.
Theo Người, chính sách tiền lương chính là một trong những đòn bẩy quan
trọng, bởi tiền lương chính là thước đo giá trị sức lao động mà người
lao động bỏ ra. Tiền lương thỏa đáng, hợp lý chính là biện pháp để ngăn
chặn các căn bệnh như tham ô, tham nhũng...
Người từng phát biểu:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”. Theo Người, thực hiện công
bằng xã hội chính là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của những thành viên
trong xã hội.
Bốn là, tư tưởng phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán với quan điểm
xây dựng, phát triển và sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Chính sách Người nêu
đối với các thành phần kinh tế lúc này là: Thứ nhất, kinh tế quốc doanh
là hình thức sở hữu của toàn dân. Thứ hai, kinh tế hợp tác xã là hình
thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Thứ ba, kinh tế cá thể của
những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Thứ tư, kinh tế
của những nhà tư sản công thương. Thứ năm, kinh tế tư bản nhà nước.
Người
đã thể hiện một cách nhìn rất biện chứng, coi hoạt động công nghiệp,
thương nghiệp là một nghề và có mối quan hệ hữu cơ giữa quyền lợi cá
nhân và quyền lợi Nhà nước với quan điểm “dân có giàu thì nước với
mạnh”.
Năm là, nêu cao tính trung thực, tinh thần
phê và tự phê. Người coi trung thực là một tiêu chuẩn đạo đức rất quan
trọng trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Người cũng đòi hỏi các nhà
công thương trong mọi trường hợp kinh doanh đều phải trong sáng, khách
quan, không vì mục đích vụ lợi, cá nhân. Điều này là một trong những quy
định về đạo đức nghề nghiệp của người kinh doanh. Nhà kinh doanh phải
đem đến lợi ích cho người tiêu dùng cũng như lợi ích của cả dân tộc.
Theo
Người, muốn trở thành người kinh doanh giỏi phải không ngừng học tập,
khổ công rèn luyện, trau dồi bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp và
đạo đức người kinh doanh. Người phê phán bệnh hội họp quá nhiều cũng
như xu hướng chạy theo số lượng trong sản xuất, ít chú trọng chất lượng.
Người
dặn sản xuất phải “nhanh, nhiều, tốt, rẻ”, người sản xuất phải thực
thà, sản xuất hàng hóa tốt cho đồng bào dùng, không nên trưng bày hàng
tốt mà bán hàng xấu; người làm kinh doanh cũng phải nhìn ra nước ngoài
để học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong quản lý sản xuất...
Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng được Người cảnh báo là một loại “giặc nội xâm”.
Những
tư tưởng trên đây không phải một sự đánh giá nhất thời, một giải pháp
tình thế trong những năm đầu Cách mạng, mà là một tư tưởng chiến lược,
một chính sách cơ bản lâu dài phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước, và vẫn còn nguyên giá trị với giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.
Lúc này
hơn lúc nào hết, những người đã, đang và sẽ đi theo con đường là những
doanh nghiệp, doanh nhân cần học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, học
tập theo tấm gương thực hành đạo đức cách mạng của Người.
Mặt
khác, những nhà doanh nghiệp hiện nay cần làm chủ tri thức, làm chủ công
nghệ hiện đại, đồng thời cũng cần phải làm chủ lương tâm, làm chủ hành
vi của mình để nâng cao đạo nghề nghiệp, gìn giữ cái “Tâm” cái “Đức”
trong sáng khi kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế ở nước ta hiện nay.