Số phận cuốn nhật ký bị chôn vùi gần 50 năm
Ai là tác giả
cuốn nhật ký này, cho đến nay vẫn còn là câu hỏi chưa có người giải đáp.
Tôi về xóm Đèn, Tân Mỹ, Tân Uyên, Bình Dương để tìm ngọn nguồn cuốn
nhật ký có số phận long đong này trong một ngày Sài Gòn - Bình Dương
trời nhiều mây, âm u, những cơn mưa cứ chực chờ đổ nước…
Nhân chứng lịch sử
Trước khi đi, những gì tôi hình dung là Tân Uyên sầm uất lắm nhưng
không hẳn vậy. Đường lên Tân Uyên vất vả hơn tôi tưởng vì Liên tỉnh lộ 8
(nay gọi là ĐT 747B) đang trong quá trình chỉnh trang, sang sửa, bụi mù
mịt, đá lởm chởm, thi thoảng một vài đoạn làm xong đường trơn tru thì
tay lái đỡ vất vả. Thế đấy, vừa đi đường vừa hỏi sau hơn hai tiếng đồng
hồ tôi cũng đến được xóm Đèn, thuộc xã Tân Mỹ, Tân Uyên và đây cũng là
căn cứ địa cách mạng quan trọng thời kháng chiến chống Pháp, Mỹ ở miền
Nam.
Nhà ông Bảy Sáng - người
tìm ra cuốn nhật ký nằm cách đường lộ xã Tân Mỹ khoảng một cây số. Diện
tích đất vườn hơn 1,5ha, căn nhà lọt thỏm giữa rừng cao su và hơn 170
gốc bưởi do ông trồng và chăm bón. Căn nhà tuềnh toàng, không cửa đóng,
then cài. Mỗi cột nhà là một cây bạch đàn được ông đóng chèn vào, lợp
mái tôn, cao ráo, mát mẻ nhưng vắng người. Ngồi trong căn nhà có thể
quan sát khung cảnh tứ phía, gió lùa từng đợt mát mẻ sướng cả người. Ước
gì cuối tuần mà có một căn nhà như thế ở thành phố để nghỉ dưỡng thì
tuyệt vời biết bao, nhưng cái mơ ước viển vông của tôi phải dừng lại để
hỏi chuyện về cuốn nhật kýá chiến trường được ông tìm thấy trong khu
nghĩa trang dòng tộc nhà ông.

Cuốn nhật ký “Thế hệ Hồ Chí Minh” cùng những bức ảnh bên trong cuốn nhật ký
Ông Sáng hồ hởi bảo, tôi cứ tưởng cô đi bằng xe hơi cùng 3, 4 người
nữa chứ đâu ngờ cô chạy xe máy một mình lên đây vất vả vậy.
Ông già 72 tuổi vừa kể vừa nhìn gian thờ gia đình, nơi để hình ảnh
những người thân đã mất, ảnh Bác Hồ và cả ảnh thờ Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tất tần tật ông bày biện một góc trang trọng trong căn nhà đơn sơ này.
Hỏi ra mới biết, gia tộc ông là một trong những gia tộc có truyền thống
cách mạng ở Tân Uyên từ thời kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ, trong
đó Anh hùng Huỳnh Văn Nghệ là con chú con bác với cha ông.
Theo nhiều tài liệu lịch sử, từ thời kháng chiến chống Pháp
(1945-1954), Chiến khu Đ được hình thành từ 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân
Tịch, Thường Lang, Lạc An (thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa). Từ năm
1948 trở đi, Chiến khu Đ được mở rộng ra. Mặc dù vậy, phạm vi chủ yếu
của chiến khu nằm trên vùng đất, tây giáp đường 16, đoạn từ thị trấn Tân
Uyên lên Cổng Xanh; bắc giáp sông Bé, đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh
Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và nam giáp sông Đồng Nai, đoạn từ ngã ba Hiếu
Liêm về thị trấn Tân Uyên.
Sang
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, do quy mô cuộc chiến tranh ở mức cao hơn,
từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), trung tâm
chiến khu chuyển dần lên phía đông bắc. Trải qua hai cuộc kháng chiến,
diễn biến vùng căn cứ có nhiều thay đổi, nhưng danh từ Chiến khu Đ luôn
gắn bó với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào vùng chiến khu như máu thịt.
Còn theo ông Bảy Sáng và người dân địa phương ở xã Tân Mỹ thì khoảng
từ năm 1962 đến 1966 là giai đoạn rất ác liệt của cuộc chiến ở địa bàn
Tân Uyên. Địch càn quét rất ác liệt, chúng rải bom hóa học phát quang
rừng tìm cộng sản, nhà cửa của dân bị đốt hết, trâu bò bị giết chết đầy
ruộng… nhân dân đành phải tản cư và vùng Tân Mỹ trở thành vùng trắng,
chỉ có bộ đội, dân quân du kích mới bám trụ lại.
Ông Bảy Sáng kể là, trong nghĩa trang dòng tộc rộng gần 5.600m2
của gia tộc nhà ông trước giải phóng có 6 phần mộ liệt sĩ. Có hai ngôi
mộ do chính Xã đội trưởng Huỳnh Văn Sáng (tức Bảy Sáng) chôn cất đồng
đội mình vào năm 1963 khi địch mở trận càn ác liệt ở Tân Mỹ. Sau đó ông
chuyển lên huyện làm cán bộ quân báo và năm 1966 về lại xã nhà thì ông
thấy khu nghĩa trang có thêm 4 phần mộ liệt sĩ. Hỏi ra ông mới biết đó
là 4 liệt sĩ hy sinh trong trận đánh lớn gần cầu Chùa, xã Tân Mỹ vào năm
1966 do chính bộ đội và nhân dân địa phương chôn cất. Sau giải phóng, 6
ngôi mộ này vẫn được ông Bảy Sáng chăm nom, hương khói thường xuyên
cùng với mồ mả gia tộc.
Sau khi
nghỉ công tác ở Huyện đội Tân Uyên năm 1982, ông Sáng tính chuyện nghỉ
ngơi nhưng hễ nghĩ đến đồng đội của mình còn nằm đâu đó trong lòng đất
lạnh thì ông gác lại ý định này. Ông tự nguyện đi tìm mộ liệt sĩ và đã
quy tập được hơn 10 hài cốt đem về nghĩa trang. Năm 2000, ông được Nhà
nước tặng bằng khen tuyên dương về nghĩa cử cao đẹp này tại Hà Nội.
Tôi có hỏi, sao lúc đó bác không đem 6 phần mộ trong nghĩa trang gia
tộc về nghĩa trang Nhà nước. Mắt ông đượm buồn, “đó là điều làm tôi còn
“ân hận””, ông trả lời.
Không
sớm đưa họ vào nghĩa trang Nhà nước nhưng ông cũng cho biết lý do của sự
chậm trễ này là khoảng năm 2007, ông có về gặp ông Phương, lúc đó là
Phó phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Tân Uyên, đề nghị cho
chuyển các hài cốt liệt sĩ này về nghĩa trang huyện. Trong quá trình
chuẩn bị thực hiện thì ông Phương bị bệnh qua đời khiến cho ông Sáng
đành gác lại mọi việc. Ông nghĩ, các đồng đội đang yên nghỉ trong nghĩa
trang gia tộc của mình nếu từ từ quy tập cũng không sao, do đó ông cứ
mải mê lao vào việc đi tìm đồng đội đang nằm ở nơi khác. Thế rồi, năm
2009 lại xảy ra chuyện động trời, toàn bộ khu đất lưu giữ các phần mộ
này đã bị san ủi.
Nhưng như ông
nói, trong cái rủi có cái may là họ chỉ mới san ủi chứ chưa đổ đất làm
nền, chứ nếu đã đổ đất nền thì khó mà phát hiện được cuốn nhật ký.

Cô gái trong bức ảnh có thể là tác giả cuốn nhật ký?
Chuyện cuốn nhật ký được tìm thấy cũng trong hoàn cảnh hết sức đặc
biệt. Ấy là sau khi khu nghĩa trang gia đình bị máy ủi san lấp, ông báo
cáo chính quyền là nơi đây có 6 phần mộ liệt sĩ cùng mồ mả gia đình ông
mà sao người ta lại san ủi một cách vô lương tâm như thế, họ không tin.
Ông gọi điện cho các nhà ngoại cảm nói về các ngôi mộ liệt sĩ này, họ
bảo ông hãy cố gắng tìm kiếm vì trong khu mộ đó có một kỷ vật rất quý.
Tin lời, 3 đến 4 ngày liền ông hì hục đào bới một bãi cát mênh mông
nhưng chẳng thấy gì. Đang tâm trạng buồn bã, chán nản thì sang ngày thứ 5
tin vui đến với ông.
Hôm đó,
trời mưa như trút nước, có cảm giác như cả dòng sông Đồng Nai dồn nước
về Tân Mỹ, nước chảy xối xả làm cho những đống cát trơ ra những gì còn
sót lại. Đang tuyệt vọng thì ông thấy trước mặt nhô lên một vật lạ. Ông
liền đến rút lên và xem thì đó là một túi ni lông ép chặt bên trong một
cuốn sổ tay nhỏ. Sung sướng mừng rỡ nhưng ông có cảm giác lạnh chạy dọc
sống lưng, sởn gai ốc, phải chăng, điều nhà ngoại cảm nói là đúng và
phải chăng linh hồn của 1 trong 6 anh em đồng đội về báo điềm gì đây.
Khi tôi thắc mắc là tại sao bị chôn vùi gần 50 năm mà cuốn nhật ký
còn khá nguyên vẹn và nét chữ còn rất rõ, ông Bảy Sáng nói là do cuốn
nhật ký được bọc trong túi ni lông đến 3 lớp và là loại ni lông bọc trái
DKB hỏa tiễn rất chắc nên rất bền.
Bóc tách 3 lớp ni lông, bên trong là một cuốn sổ nhỏ bằng bàn tay đã
mục ở gáy, lật trang bên trong ông thấy bốn chữ “Thế hệ Hồ Chí Minh”.
Cuốn sổ bị ẩm, ông đem về nhà phơi từng trang một 2 đến 3 ngày mới xong.
“Khi đọc qua, không thấy ghi tên tác giả, chỉ thấy ghi M và tôi rất xúc
động ở những trang M viết về gia đình, hay khi M bị bệnh và mấy bài thơ
của M sáng tác rất hay. Cũng là điều đặc biệt vì đa số nhật ký chiến
trường đều do người Bắc viết và đây có lẽ là cuốn nhật ký đầu tiên của
người Nam được tìm thấy” - ông bùi ngùi.
Tác giả cuốn nhật ký là ai?
Điều làm nhiều người băn khoăn là trong cuốn nhật ký được phát hiện
vừa qua tại ấp Xóm Đèn, xã Tân Mỹ, Tân Uyên, Bình Dương không ghi tên
tuổi người viết, nguyên quán, địa chỉ công tác, đơn vị công tác… hẳn là
do quy định bí mật của thời chiến chăng? Và cho đến nay, tất cả mọi điều
liên quan đến tác giả chỉ là phỏng đoán dựa vào ngày tháng và nội dung
chứa đựng trong cuốn nhận ký.
Trong nhận ký, tác giả xưng là M, hay M chính là “mình” nhưng dựa vào
các trang viết, chúng tôi xác định chủ nhân của cuốn nhật ký là sinh
viên, đảng viên vì căn cứ vào những trang viết sau: “Tháng 12/1962, rời
mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng, vừa dạy học, vừa tham
gia các mặt trận khác. Sau đó lên đường vào chiến trường. Ngày đi, ngoại
nhắn lời nhắn nhủ hữu ích của cậu, mình cố khắc sâu vào tư tưởng, cố
gắng làm thế nào cho xứng đáng là đứa cháu của cậu, đứa con gái ngoan
của ba má, người con ưu tú của Đảng...”.
Với 35 trang viết trong cuốn nhật ký 39 trang, còn 4 trang bỏ dở.
Trang đầu tiên bắt đầu từ tháng 12/1962: Rời mái trường trở về địa
phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác
kháng chiến ở địa phương” và kết thúc ở trang 35 vào ngày 20/10/1966 với
những suy nghĩ về việc đọc sách:… “Một vị lãnh tụ cũng đã từng nói:
“Một quyển sách hay, một bản nhạc tốt, một bài thơ hay có tác dụng như
hàng binh đoàn xung phong ra trận diệt quân thù”.

Ông Huỳnh Văn Sáng (ông Bảy Sáng) - người tìm thấy cuốn nhật ký
Những trang nhật ký với nét chữ cứng cỏi, suy nghĩ sâu sắc, đầy ắp lý
tưởng cách mạng cho thấy chị M là trí thức được đào tạo bài bản ở nhà
trường và bản thân chị có những suy nghĩ rất chín chắn của một người
trưởng thành.
Có lẽ chị là một
giáo viên mới ra trường với nhiều niềm tin, hoài bão, mơ ước về nghề
giáo. “Ngày 20/11/1964: Hôm nay là ngày lễ Nhà giáo yêu nước. M được
nghe kể lại nghề giáo. M cần học tập nhiều hơn nữa. Trau dồi bản thân để
trở thành một người giáo viên toàn diện, yêu nghề, yêu trẻ đúng mức”.
Có lẽ, tác giả nhật ký là nhà giáo dạy văn chăng, vì thường sau những
cảm xúc miên man, những suy nghĩ chín chắn là những bài thơ về tình
bạn, cách mạng, lý tưởng Cộng sản: “Em hỡi! Em ơi! Em nghĩ gì/ Rộn ràng
phấn khởi hay sầu bi/ Hãy nghĩ đến ngày mai tươi sáng/ Miền Nam ta giải
phóng tự do/ Cùng nhau vui hát bài ca thanh bình/ Em hỡi sao em không
nói/ Nói đi em chị lắng nghe đây/ Nghe em kể lại những ngày...” được chị
viết vào ngày 17/10/1966 tặng H, người em cùng quê.
Chị cũng là người có lý tưởng cách mạng kiên định, bằng chứng là chị
đã cất vào cuốn nhật ký hình ảnh Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi và phía sau
tấm ảnh có con dấu “Nhiếp ảnh TTX Giải phóng - Phát hành kỷ niệm 2 năm
ngày hy sinh Nguyễn Văn Trỗi”. Chị có nhiều suy nghĩ về lý tưởng sống
của thanh niên thời bấy giờ “Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, một Nguyễn Văn
Trỗi ngã xuống, hàng vạn Nguyễn Văn Trỗi đứng lên”.
Trên đường hành quân vào ngày 10/10/1966, nhớ về anh Trỗi, chị viết:
“Chỉ còn mấy ngày nữa là đến ngày kỷ niệm, ngày giỗ lần thứ 2 của anh
Trỗi. Để thiết thực kỷ niệm ngày hy sinh anh dũng của anh, mình phải làm
gì? Trong công tác đối với kẻ thù, đối với đồng chí, đồng đội phải như
thế nào? Đạo đức người cách mạng, người cộng sản, đối với người thân
yêu... đó là những vấn đề cần tính làm thế nào cho được tốt toàn
diện...”.
Cũng như bao người con
gái khác, chị cũng có những giây phút thổn thức của trái tim nhưng
dường như lý trí đã chiến thắng. Ngày 14/9/1965, chị viết: Có người đến
tìm hiểu và hỏi ý kiến muốn xây dựng cùng M, nhưng ý nghĩ, tư tưởng chưa
nghĩ tới. Cho nên M không thể nhận lời, không thể vừa lòng người được.
Nhưng trái ngang thay, sau đó chính chị cũng viết lên nỗi trăn trở,
mất mát bởi chiến tranh gây nên sự chia ly: “Đến gặp anh C để bàn giao
công tác. Một tin làm mình xúc động vô cùng vì người thân đã sa vào tay
giặc ngày 8-1. Mình buồn và có suy nghĩ nhiều, dù rằng, đối với mình
chưa có gì là khái niệm sâu sắc trong lòng, ngoài tình đồng chí, tình
cảm cách mạng, nhưng mình coi anh ấy là người bạn... và cũng là người lý
tưởng của mình...”, được chị viết vào ngày 21/1/1966. Năm mà cuộc chiến
tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn khốc liệt và đây cũng là năm khu mộ
dòng tộc nhà ông Bảy Sáng có thêm phần mộ của 4 chiến sĩ đã hy sinh.
Và để tự động viên sự mất mát của bản thân: “Mình lại nghĩ đến tình
yêu cao thượng của anh Trỗi, chị Quyên, đôi vợ chồng vừa cưới nhau được
20 ngày, mới chung sống thời gian ít như vậy mà vội chia ly vĩnh viễn.
Trường hợp mình cũng gần giống vậy nhưng mình phải đặt vào tổ chức kỷ
luật cao...”.
Qua những trang
viết, chúng tôi đoán có thể quê chị ở miền Tây, Cần Thơ chăng vì ngày
20/11/1965 chị ghi: “Viết thư cho người thân ở Cần Thơ. Mong hồi thư…”.
Dù đôi lúc chị phân vân vì tình cảm riêng tư và có suy nghĩ mà bản
thân chị cho là chưa trưởng thành, chưa chín chắn nhưng sâu thẳm chị là
người cộng sản chân chính, sống hết lòng vì lý tưởng cao đẹp, điều đó
được thể hiện trong trang viết: Kỷ niệm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 5. Trong 5 năm qua, Mặt trận đã lớn
mạnh nhiều. M cũng từ đó, qua sự giáo dục của cách mạng, của Đảng, với
nhiệm vụ công tác của mình, M đã lớn lên về tư tưởng, về công tác. Phải
trui rèn nhiều hơn nữa để trở thành con người ở thế hệ Hồ Chí Minh -
ngày 20/12/1965.
Có phải vì thế
nên dù bị vùi dưới lòng đất gần 50 năm nhưng các kỷ vật của người chiến
sĩ cộng sản này vẫn còn nguyên vẹn đến lạ kỳ. Hình ảnh cô gái đội mũ tai
bèo đứng giữa rừng Chiến khu Đ nở nụ cười rạng rỡ, hay cô gái ngồi dưới
gốc dừa Nam Bộ tươi xinh, hay cô bé mặc chiếc đầm xinh xắn tay ôm búp
bê… và đặc biệt là tấm ảnh Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi luôn trong hành
trang người chiến sĩ.
Với bao lý
tưởng cao đẹp như thế nhưng người con gái ấy đã không chờ được đến ngày
quê hương giải phóng, đến ngày được đoàn tụ với gia đình, đến ngày được
đứng trên bục giảng… và chúng tôi chỉ có thể phỏng đoán là chị hy sinh
trong hoặc sau ngày 20/10/1966 ở trang viết cuối cùng. Cho đến nay cũng
chưa thể khẳng định chị là 1 trong 6 liệt sĩ nằm trong khu nghĩa trang
gia tộc ông Bảy Sáng.
Qua trao
đổi với báo chí, ông Phan Văn Đương, nguyên Phó bí thư Thường trực Tỉnh
ủy, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Bình Dương cho rằng, có thể xác
định được danh tính của chiến sĩ M. “Nếu tính tuổi đời thì đến giờ cô
khoảng độ trên 60 tuổi. Trong khi đó, các cựu chiến binh sống cùng thời
hoặc lớn tuổi hơn từng công tác tại địa phương thì còn rất nhiều. Căn cứ
vào các tình tiết trong nhật ký như cô là cán bộ giáo dục, các lớp tập
huấn cô từng tham gia, các tình tiết ẩn nấp trong hầm... tra lại ở xã,
huyện sẽ biết cô thuộc đơn vị nào, nhiệm vụ công tác, quê quán, người
thân nơi đâu. Chúng ta cũng hy vọng rằng, qua thông tin đại chúng, người
thân của cô ở nơi nào đó sẽ đọc thấy và đến nhìn nhận thân nhân. Như
vậy, chúng ta tiếp tục tiến hành truy tặng danh hiệu, quy tập mồ mả về
nghĩa trang liệt sĩ chăm sóc chu đáo”.
Mong rằng trong một ngày không xa, cuốn nhật ký của chị M sẽ kết thúc
có hậu như cuốn nhật ký của nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, để chị M trở về
vòng tay êm ấm của gia đình dù là trong tưởng nhớ.
(Theo petrotimes.vn)